Soi kèo góc West Ham vs Leicester, 3h00 ngày 28/2
相关文章
- 、
-
Nhận định, soi kèo St. Pauli vs Dortmund, 21h30 ngày 1/3: Thêm trận đấu mất điểm -
VNPAY được biết đến như một nhà cung cấp giải pháp thanh toán bằng QR Code tiên phong ở thị trường Việt Nam. Báo cáo kinh tế số thường niên mới đây của Google cho thấy, khu vực Đông Nam Á đã có kỳ lân công nghệ thứ 12, đó là Công ty CP Giải pháp Thanh toán Việt Nam (gọi tắt là VNPAY). Trước đó, 11 kỳ lân công nghệ khu vực này là Bigo, Bukalapak, Gojek, Grab, Lazada, Razer, OVO, Sea Group, Traveloka, Tokopedia và VNG, theo e-Conomy SEA 2020.
VNPAY vẫn được biết đến là công ty đi đầu trong việc cung cấp các giải pháp thanh toán trên nền Internet. Sản phẩm nổi bật nhất trong ba năm trở lại đây của công ty là giải pháp thanh toán QR Code trên các ứng dụng Mobile Banking của các ngân hàng. VNPAY QR hiện đã được tích hợp trên 32 ngân hàng, có mặt trên 8 ví điện tử và hơn 100.000 điểm thanh toán trên toàn quốc, với khoảng 15 triệu người dùng hàng tháng.
Nhiều năm trước, VNPAY từng dấn thân vào mảng phát hành game online Thực tế, với thế mạnh là cổng thanh toán, ít ai biết rằng VNPAY từng thử sức mình ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có phát hành game online. Công ty này từng thành lập đơn vị chuyên trách có tên gọi VNPAY Online (sau đổi tên thành VIGO) để vận hành các sản phẩm game online có giấy phép phát hành ở Việt Nam.
Sản phẩm đầu tay được VNPAYOnline phát hành là Huyền Thoại Anh Hùng vào tháng 10/2013 với dấu ấn là việc mời Mai Phương Thúy làm đại sứ game. Tuy nhiên, thành công nhất phải kể đến Kiếm Tung, webgame 3D được đánh giá chất lượng nhất nhì thị trường vào thời điểm đó.
Dù vậy, giữa một rừng các sản phẩm webgame đủ thể loại, Huyền Thoại Anh Hùng và Kiếm Tung bắt đầu đi xuống sau một thời gian vận hành hết nội dung (content). Sản phẩm cuối cùng, Chiến Binh Định Mệnh, đã đặt dấu chấm hết cho thương hiệu VIGO ở mảng game. Phần còn lại đã trở thành lịch sử khi VIGO chính thức đóng cửa vào khoảng cuối năm 2015.
e-Conomy SEA là báo cáo thường niên về nền kinh tế số ở khu vực Đông Nam Á bao gồm 6 thị trường lớn là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Ngoài các báo cáo riêng cho từng quốc gia, báo cáo năm nay tập trung vào ảnh hưởng của Covid-19 đến các ngành nghề của nền kinh tế số và khả năng bứt phá của khu vực có tới 400 triệu người dùng Internet này.
Phương Nguyễn
Cú ngã ngựa của TikTok có là cơ hội cho các Startup Việt?
Nhân cơ hội TikTok sa cơ, những ông lớn như YouTube, Facebook đều đã nhăm nhe nhảy vào hốt miếng bánh mà TikTok để lại ở những thị trường lớn như Ấn Độ, Mỹ…
"> VNPAY trở thành kỳ lân công nghệ thứ 2 của Việt Nam -
Theo các chuyên gia, nếu như các dịch vụ viễn thông, di động của Việt Nam mở ra chậm hơn thế giới từ 15-30 năm thì Internet vào Việt Nam chậm hơn so với khởi đầu của thế giới chỉ chừng vài năm (Ảnh: Anh Dũng) Khởi động từ năm 1991 và email đặc biệt năm 1994
Ông Trần Bá Thái, Giám đốc Công ty NetNam - Viện Công nghệ Thông tin (CNTT) thuộc Viện Khoa học Việt Nam vẫn còn nhớ năm 1991, Viện không được tham dự cuộc họp quốc tế đầu tiên về Internet tại châu Âu. Nhưng cùng năm đó, cuộc họp lần 2 ở Kobe (Nhật), Viện may mắn được tham dự. Thời kỳ đó Internet mới chỉ dừng lại ở trong giới khoa học và một số trường đại học của Mỹ, châu Âu. Cũng trong năm đó, Viện đã được thử nghiệm Internet với một trường đại học của Đức trong khuôn khổ dự án của UNDP.
“Chúng tôi làm công việc đầu tiên để xây dựng hạ tầng Internet như xây dựng account tại mạng của trường đại học này và thử nghiệm các công nghệ cơ bản. Việc thử nghiệm chủ yếu để nghiên cứu nền tảng công nghệ, tạo account email và chuyển tệp cho nhau. Sau đó hết kinh phí nên dừng lại”, ông Trần Bá Thái cho hay.
Đến tháng 4/1994, ông Thái được GS Đặng Hữu, Bộ trưởng Bộ KHCN giao cho thiết lập email để phục vụ cho chuyến viếng thăm của Thủ tướng Úc. Ở thời điểm đó, Internet vẫn là chuyện "tranh tối, tránh sáng" nên để có tiên miền Việt Nam (.VN), ông Trần Văn Đắc Vụ trưởng Vụ Khoa học đã phải ký công văn của Bộ KHCN - Môi trường nhưng không đóng dấu rồi fax sang APNIC để đăng ký cho một chủ thể duy nhất.
Khi có địa chỉ tên miền rồi, Viện mới tạo lập email server đầu tiên, account (tài khoản) của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt có tên miền Việt Nam. Đây là cặp nguyên thủ quốc gia thứ 2 trên thế giới sử dụng Internet vào công việc. Cặp đầu tiên là Tổng thống Bill Clinton và Tổng thống Thụy Điển Carl Bilt. Thời kỳ đó, Viện chưa có kinh nghiệm lắm về địa chỉ tên miền nên lấy địa chỉ là [email protected].
Chuyện thuyết phục mở Internet
Một trong những người đứng đầu Chính phủ chủ trì nhiều cuộc họp bàn về mở Internet đã bày tỏ quan điểm ủng hộ, sớm đưa vào Việt Nam là nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh. Chuyện thuyết phục trong nội bộ trước khi quyết định mở Internet cũng đầy khó khăn, bởi có nhiều luồng thông tin khác nhau. Thời đó, mở Internet ở nước ta có khó khăn về trình độ công nghệ, nhưng điều khó nhất là làm sao giải trình rõ và thuyết phục được các cơ quan có trách nhiệm về những lợi ích to lớn cho sự phát triển và khả năng quản lý được hoạt động của Internet.
Đã có nhiều lo lắng về những mặt tiêu cực, như sợ lộ bí mật hay sẽ có nhiều kẻ lợi dụng Internet nói xấu, xuyên tạc chế độ... Ngay cả khi Chính phủ đã quyết định cho mở rồi thì các bước đi cũng rất thận trọng, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Thậm chí, Quy chế tạm thời về quản lý, thiết lập, sử dụng mạng Internet ở Việt Nam kèm theo Nghị định ngày 21/3/1997 còn quy định “Các mạng thông tin máy tính và các cơ sở dữ liệu của các cơ quan Đảng, Chính phủ, An ninh Quốc phòng không được đấu nối với mạng Internet”.
Rất mừng, các nhà khoa học của Việt Nam, nhiều cơ quan thông tin đại chúng đã nhận thấy sức mạnh của Internet nên tích cực ủng hộ và thúc đẩy để mở. Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh cho rằng, về mặt kỹ thuật, chúng ta có thể mở Internet sớm hơn. “Một số người mong muốn ra sớm hơn, nhưng tôi cho rằng cần phải chuẩn bị kỹ cả về điều kiện kỹ thuật, hạ tầng, mạng lưới, nguồn nhân lực, các cơ chế chính sách quản lý và quan trọng nhất là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng”.
FPT là một trong bốn doanh nghiệp đầu tiên được cấp phép cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam. Ảnh tư liệu. GS Đặng Hữu là một trong những người cần có nhu cầu thông tin và phải sử dụng Internet. Ông đã tìm cách thuyết phục Đảng và Chính phủ cho mở. “Chúng tôi có đưa ra khái niệm “Kinh tế tri thức”, nếu không có Internet không thể có kinh tế tri thức được”, GS Hữu hồi tưởng.
Nhận thức được sức mạnh của Internet không phải chỉ có những người làm công tác quản lý và nghiên cứu. Ngay từ năm 1996 khi chưa cho mở Internet, chủ doanh nghiệp Hoàng Anh Gia lai đã thuê 2 kỹ sư để mua 2 máy tính, hàng ngày truy cập tìm kiếm thông tin và thị trường cho mặt hàng gỗ của mình.
Nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện Mai Liêm Trực cho rằng “Nếu như các dịch vụ viễn thông của Việt Nam mở ra chậm hơn thế giới khoảng 40-50 năm, dịch vụ điện thoại di động chậm hơn của thế giới khoảng 15-20 năm, Internet vào Việt Nam chậm hơn so với khởi đầu của thế giới chỉ chừng 7-8 năm. Còn so với một số quốc gia trong khu vực, chỉ chậm vài ba năm”.
Đến tư duy “quản” theo kịp với “mở”
Sau khi Viện CNTT thử hệ thống email đầu tiên, đến năm 1995, Công ty điện toán và truyền số liệu VDC đã triển khai hệ thống truyền số liệu. Ông Vũ Hoàng Liên, Giám đốc công ty cho biết, năm 1996 VDC đã bắt đầu triển khai dự án cung cấp Internet đầu tiên với số tiền đầu tư là 7 tỷ đồng. Đầu năm 1997, triển khai cung cấp dịch vụ cho Uỷ ban người Việt Nam ở nước ngoài. Tạp chí Quê hương là tờ báo đầu tiên của Việt Nam được kết nối mạng Internet toàn cầu .
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm hệ thống server đầu tiên của VDC trong giai đoạn thuyết phục lãnh đạo Đảng, Nhà nước cho phép mở Internet vào Việt Nam. (Ảnh tư liệu) “Chúng tôi biết rằng, Nghị định 21 không ổn để cho Internet phát triển. Ngay từ đầu Tổng cục Bưu điện đã thấy cần phải thay đổi Nghị định này. Nhưng thuyết phục để chuyển sang tư duy quản phải theo kịp với mở rất khó khăn. Chuyển từ Nghị định 21 sang Nghị định 55 được ví như cuộc Cách mạng lần 2 thì hơi to tát. Nhưng đây thực sự là sự trăn trở và sự chuyển đổi tư duy về cơ quản quản lý nhà nước trong đổi mới. Quản lý phải theo kịp với phát triển là đúng với các ngành chứ không riêng gì Internet. Trong quá trình đổi mới, có những cái vì quản lý yếu kém nên đã hạn chế sự phát triển của đất nước”, ông Trực cho hay.Ông Mai Liêm Trực nhớ lại, khi mở Internet năm 1997, không chỉ có Nghị định 21 mà đã có văn bản riêng của cấp rất cao chỉ đạo "quản đến đâu mở đến đấy".
Theo nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Mai Liêm Trực, chuyển từ Nghị định 21 sang Nghị định 55 là sự trăn trở và sự chuyển đổi tư duy về cơ quản quản lý nhà nước trong đổi mới. Ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hiệp hội Internet (VIA) chia sẻ, kể từ khi được phép mở, Internet đã đóng góp hiệu quả vào các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Internet từ chỗ là thứ xa xỉ đã dần trở thành công cụ thiết thực, thiết yếu, gần như không thể thiếu trong mọi hoạt động của nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và đời sống của đông đảo người dân Việt Nam.
Nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của cơ chế, Chủ tịch VIA cho rằng, trong quá trình phát triển của lĩnh vực Internet, cơ quan quản lý đã có sự nhìn nhận để đưa ra những quy định phù hợp hơn cho các chặng đường, các giai đoạn.
Cụ thể, khi Internet mới mở cửa, Tổng cục Bưu điện ban hành Nghị định 21 quy định quản lý tạm thời với quan điểm “pháp lý đi trước, phát triển đi sau” (quản đến đâu thì phát triển đến đó). Bốn năm sau, quản lý của nhà nước đã có bước tiến mới, với việc Nghị định 55 ra đời, xác định: “pháp lý đi sau, phát triển đi trước” (phát triển đến đâu quản lý đến đó, quản lý phải theo kịp sự phát triển).
“Phải thừa nhận rằng Nghị định 55 là một bước tiến, bước cải thiện của tư duy quản lý, và đương nhiên nó có tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó có Internet”, vị Chủ tịch VIA nói.
Vân Anh - Thái Khang
Thử thách tư duy đi cùng thế giới trong cuộc đua 5G
3 nhà mạng lớn bắt đầu triển khai 5G để đưa Việt Nam vào những quốc gia có 5G thương mại sớm nhất thế giới. Như vậy, viễn thông đã tiếp nối bài học về đi thẳng lên hiện đại, đi ngang thế giới và làm chủ công nghệ.
"> Cuộc vật lộn của tư duy đổi mới khi đưa Internet vào Việt Nam -
Dù chính sách có nhiều thông thoáng nhưng nhiều DN vẫn gặp khó trong kinh doanh thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần do nhiều yếu tố khách quan. Đảm bảo nguồn cung thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần tại VNHiện nay, nhu cầu sử dụng thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và thuốc tiền chất của Việt Nam không nhiều, lượng đặt hàng của cơ sở khám, chữa bệnh cho các công ty kinh doanh dược không cao dẫn đến đối tác nước ngoài thiếu mặn mà trong việc cung cấp các hồ sơ, tài liệu pháp lý cũng như tài liệu kỹ thuật để các công ty Việt Nam làm thủ tục đăng ký lưu hành và xin giấy phép nhập khẩu.
Ví dụ về hồ sơ nghiên cứu độ ổn định của thuốc, phần lớn các thuốc gây nghiện, hướng thần, tiền chất sử dụng trong cấp cứu được nhập về từ các nước châu Âu, nơi có điều kiện khí hậu khác biệt rất lớn với Việt Nam.
Thuốc nhập về Việt Nam phải đảm bảo chất lượng và độ ổn định ở điều kiện bảo quản vùng IVB theo khuyến nghị về hồ sơ kỹ thuật chung ASEAN (tức là điều kiện nhiệt độ 30±2 độ C, độ ẩm tương đối 75±5%) trong khi thuốc của các nước châu Âu chỉ có sẵn dữ liệu nghiên cứu ở điều kiện vùng có khí hậu ôn đới (nhiệt độ 25 độC và độ ẩm tương đối 65%).
Như vậy, nhà sản xuất phải thực hiện việc nghiên cứu độ ổn định của thuốc cho riêng thị trường Việt Nam trong khi nhu cầu của Việt Nam lại không cao, không tương ứng với quy mô nghiên cứu.
Bên cạnh những khó khăn từ phía nhà sản xuất, các cơ sở kinh doanh dược cũng gặp trở ngại về vấn đề tài chính do công tác đặt hàng của các cơ sở khám chữa bệnh chưa bị ràng buộc bởi các biện pháp phòng ngừa rủi ro, cơ sở khám, chữa bệnh dự trù không sát với thực tế, hoặc chỉ đặt hàng khi có nhu cầu mà không có dự báo trước, đặc biệt là các thuốc hiếm, nhóm thuốc ít cơ sở có nhu cầu sử dụng.
Khi cơ sở nhập khẩu tìm được nguồn cung và nhập hàng về thì một số cơ sở khám, chữa bệnh không có nhu cầu sử dụng nữa hoặc sử dụng rất ít so với số lượng đặt hàng. Kết quả, cơ sở kinh doanh chịu tổn thất rất lớn vì phải hủy thuốc do không có đơn vị nào có nhu cầu, thuốc hết hạn sử dụng.
Nguồn cung ứng thuốc sẽ được cải thiện
Thực hiện chủ trương công khai, minh bạch trong công tác cấp phép kinh doanh thuốc kiểm soát đặc biệt, luật Dược 2016 và Nghị định 54/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật Dược đã quy định cụ thể điều kiện các cơ sở được phép kinh doanh thuốc phải kiểm soát đặc biệt nói chung và thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất nói riêng.
Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước về dược không chỉ định cơ sở kinh doanh thuốc phải kiểm soát đặc biệt mà tiến hành đánh giá các biện pháp về an ninh, bảo đảm chống thất thoát thuốc, nguyên liệu làm thuốc phải kiểm soát đặc biệt của cơ sở kinh doanh thuốc, nếu đáp ứng quy định thì được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc.
Với quy định này, dự kiến số lượng cơ sở kinh doanh thuốc gây nghiện, hướng thần, thuốc tiền chất sẽ tăng thêm, nguồn cung ứng thuốc cũng được cải thiện đáng kể.
Đối với hồ sơ đề nghị cấp giấy đăng ký lưu hành và hồ sơ đề nghị cấp giấy phép nhập khẩu các thuốc trên, Cục Quản lý Dược đã nỗ lực đẩy nhanh tiến độ thẩm định nhằm giảm thiểu thời gian chờ đợi của doanh nghiệp trong khâu cấp phép.
Bên cạnh những nỗ lực của cơ quan quản lý nhà nước về dược, rất cần phải có sự chủ động từ phía các cơ sở khám, chữa bệnh trong khâu dự trù và cần sự năng động của các cơ sở kinh doanh dược, đặc biệt là cơ sở sản xuất trong nước vì chỉ khi Việt Nam tự sản xuất được các thuốc trên thì chúng ta mới chủ động được về nguồn cung cho thị trường, phục vụ nhu cầu điều trị cho người bệnh.
T.Thư
">