Người mua nhà tại Việt Nam bị lợi dụng như thế nào?
-“Người mua nhà tại Việt Nam đang bị lợi dụng vì có những trường hợp tiền mất tật mang do năng lực yếu của chủ đầu tư. Khi những ông chủ này vỡ nợ,ườimuanhàtạiViệtNambịlợidụngnhưthếnàlịch thi đấu trực tiếp v-league hôm nay không triển khai, sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng”.
Đây là nhận định của chuyên gia tài chính TS. Nguyễn Trí Hiếu tại hội thảo “Xu hướng chọn mua bất động sản năm 2017” diễn ra ngày 19.4 tại TP.HCM.
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, hiện nay, người mua nhà tại Việt Nam chưa quan tâm đến vấn đề ngân hàng bảo lãnh cho chủ đầu tư, trong bán và cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai, mà chỉ quan tâm về tên tuổi chủ đầu tư. Do bản thân người mua không quan tâm, không đòi hỏi quyền lợi, nên nhà đầu tư cũng không nhắc đến, bỏ qua vấn đề bảo lãnh.
![]() |
chuyên gia tài chính TS. Nguyễn Trí Hiếu phát biểu tại hội thảo |
Ông Hiếu nói rằng, hiện tại ông không có thống kê cụ thể nào về việc các ngân hàng đã thực hiện việc bảo lãnh như thế nào, thế nhưng ở ngân hàng ông đang làm việc thì đã phát hành rất nhiều chứng thư bảo lãnh cho các chủ đầu tư có quan hệ với ngân hàng. Vấn đề phát hành bảo lãnh cũng có nhiều rủi ro thế nên các ngân hàng tỏ ra rất thận trọng trong vấn đề phát hành này.
Trước thực trạng trên, câu hỏi ông Hiếu đặt ra là người mua nhà bỏ qua vấn đề này thì có hợp lý? Liệu việc bảo lãnh có phải là giải pháp trường tồn cho thị trường bất động sản không?
Theo ông Hiếu, tại Mỹ không có việc bảo lãnh bất động sản hình thành trong tương lai. Chủ đầu tư tại nước này không được phép ra ngoài kêu gọi người dân đóng góp vào. Nếu người dân muốn mua nhà từ khi chưa hình thành thì chủ đầu tư phải đưa số tiền đó vào một “kho” riêng. Đến khi dự án xây xong, chủ đầu tư mới được lấy tiền đó mang trả ngân hàng.
“Người mua nhà tại Việt Nam đang bị lợi dụng vì có những trường hợp tiền mất tật mang do năng lực yếu của chủ đầu tư. Khi những ông chủ này vỡ nợ, không triển khai sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Điều thiếu sót trong bảo lãnh bất động sản tại Việt Nam là ngân hàng chỉ bảo lãnh cho người mua nhà trong việc bắt buộc chủ đầu tư phải giao đúng tiến độ nhưng lại không bảo lãnh chất lượng sản phẩm”, ông Hiếu nói.
Không những vậy, việc bảo lãnh bất động sản chỉ kéo dài và có hiệu lực 30 ngày sau khi nhà được bàn giao. Trong thời gian 30 ngày đó, người người tiêu dùng phải kiểm tra những vấn đề còn tồn tại ngay sau khi giao nhà. Trong khi đó, chi phí bảo lãnh là do chủ đầu tư thanh toán và chỉ xoay quanh ở mốc 1%, tùy vào quy hệ giữa ngân hàng và chủ đầu tư.
Khi mua nhà, ông Hiếu cho rằng người mua cần quan tâm các vấn đề liên quan đến những dự án đã có bảo lãnh. Khách hàng phải xem lại việc mua những căn nhà hình thành trong tương lai nếu như chủ đầu tư không cung cấp giấy tờ bảo lãnh dự án. Đặc biệt, chủ đầu tư cũng cần phải thông báo đến khác hàng về việc ngân hàng đang bảo lãnh dự án.
“Tại Mỹ, có nhiều thông tin liên quan đến năng lực chủ đầu tư nhưng Việt Nam lại không có nhiều thông tin này dẫn đến khó khăn cho khách hàng trong việc tìm kiếm thông tin. Vì vậy, khách hàng có thể tìm hiểu năng lực chủ đầu tư và việc bảo lãnh bất động sản của các ngân hàng bảo lãnh thông qua Ngân hàng Nhà nước”, ông Hiếu khẳng định.
Cũng theo ông Hiếu, những khách hàng có tài khoản trong một ngân hàng nào đó có thể tận dụng vai trò khách hàng để tìm hiểu bảo lãnh của từng ngân hàng đó hoặc những ngân hàng khác.
“Việc bảo lãnh là rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vì chỉ có như vậy những tình trạng ôm nợ, tiền mất tật mang sẽ không còn xảy ra nữa”, ông nói thêm.
Diệu Thủy
![]() Cẩn trọng "sập bẫy" mua nhà ở xã hội của "cò" đấtTin lời hứa của “cò” đất, không ít khách hàng phải bỏ tiền chênh hàng trăm triệu đồng để có suất mua nhà ở xã hội (NOXH). 本文地址:http://game.tour-time.com/news/640b199232.html版权声明本文仅代表作者观点,不代表本站立场。 |
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia hướng tới mục tiêu kép
Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 749 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Chương trình xác định tầm nhìn đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia hướng tới mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với một số chỉ số cơ bản cụ thể.
Trong đó, về phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động, các mục tiêu cơ bản đến năm 2025 của Chương trình là: 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước);
100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về inh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ; 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư, Đất đai, Đăng ý doanh nghiệp, Tài chính, Bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bước mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo, trọn vòng đời phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội;
50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; và Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
Về phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, các mục tiêu đến năm 2025 là đưa kinh tế số Việt Nam chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; Năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%.
Cùng với đó, Chương trình cũng hướng tới mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về CNTT (IDI), nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI) và thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
Đối với phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số, các mục tiêu cơ bản đến năm 2025 bao gồm: Hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã; Phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; Tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; và Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số
Cũng theo Chương trình Chuyển đổi số quốc gia mới được phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ cũng xác định rõ 6 quan điểm, cách tiếp cận của Chương trình, trong đó: Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số; Người dân là trung tâm của chuyển đổi số; Thể chế và công nghệ là động lực của chuyển đổi số; Phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả; Bảo đảm an toàn, an ninh mạng là then chốt để chuyển đổi số thành công và bền vững, đồng thời là phần xuyên suốt, không thể tách rời của chuyển đổi số; và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân là yếu tố bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số.
Trên quan điểm đó, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đã vạch ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần triển khai nhằm tạo nền mỏng chuyển đổi số; phát triển chính phủ số; phát triển kinh tế số và phát triển xã hội số.
Cụ thể, để tạo nền móng chuyển đổi số, Chương trình xác định, cần chuyển đổi nhận thức về sứ mệnh, sự cần thiết, tính cấp bách của chuyển đổi số trong xã hội, lan truyền từ điểm tới diện, từ một nhóm tổ chức, cá nhân tiên phong tới cộng đồng, bằng những câu chuyện thành công điển hình, có tính thuyết phục cao.
Triển khai nhiệm vụ nêu trên, 4 giải pháp cụ thể được đưa ra là: Người đứng đầu chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách; Thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả Liên minh Chuyển đổi số để truyền cảm hứng, đi tiên phong; Xây dựng bộ nhận diện chung cho Chương trình Chuyển đổi số quốc gia; Mỗi địa phương chủ động lựa chọn một xã/phường để triển khai thử nghiệm công tác truyền thông, phổ biến các kỹ năng số cơ bản cho người dân.
Về kiến tạo thể chế, theo Chương trình, nhiệm vụ này cần được triển khai theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số, thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mối quan hệ mới phát sinh, bao gồm: Chấp nhận thử nghiệm sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số; xây dựng khung pháp lý thử nghiệm; Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chuyên ngành; Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh.
Cùng với đó, cần nghiên cứu đề xuất, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về CNTT và truyền thông; Nghiên cứu chính sách, quy định cụ thể về thuế, phí để khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng, cung cấp các dịch vụ số; Rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật dân sự, hình sự và các luật chuyên ngành theo hướng tăng nặng mức và hình phạt cho các hành vi lừa đảo, gian lận khi giao dịch trên không gian mạng.
![]() |
Theo Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, phát triển hạ tầng số là một trong sáu nhóm nhiệm vụ giải pháp tạo nền móng chuyển đổi số (Ảnh: Zingnews.vn) |
Đối với nhóm nhiệm vụ, giải pháp phát triển hạ tầng số, yêu cầu đặt ra là sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu, các chức năng về giám sát mạng lưới đến từng nút mạng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng được tích hợp sẵn ngay từ khi thiết kế, xây dựng.
Để triển khai nhiệm vụ này, 4 giải pháp cụ thể sẽ được tập trung triển khai, đó là: Xây dựng, phát triển hạ tầng băng rộng; Nâng cấp mạng di động 4G, triển khai mạng di động 5G, kết hợp với yêu cầu tích hợp công nghệ 4G, 5G đối với các sản phẩm điện thoại di động và phổ cập điện thoại di động thông minh; Mở rộng kết nối Internet trong nước, phổ cập tên miền .vn; Phát triển hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT) và tích hợp cảm biến để chuyển đổi hạ tầng truyền thống thành một bộ phận cấu thành quan trọng của hạ tầng số.
Trong nhóm nhiệm vụ, giải pháp này, việc phổ cập điện thoại di động thông minh - mỗi người dân một điện thoại di động thông minh và phổ cập hạ tầng băng rộng - mỗi hộ gia đình một đường cáp quang có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số.
Cũng để tạo nền móng chuyển đổi số, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia còn đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về Phát triển nền tảng số; Tạo lập niềm tin, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; Hợp tác quốc tế, nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số.
Bên cạnh đó, Chương trình cũng đưa ra một số lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số, bao gồm: Y tế, Giáo dục, Tài chính - Ngân hàng, Nông nghiệp, Giao thông vận tải, Năng lượng, Tài nguyên và Môi trường, Sản xuất công nghiệp.
Cơ chế điều phối triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia
Về cơ chế điều phối triển khai Chương trình, quyết định của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ, Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử thực hiện chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về chủ trương, chiến lược, cơ chế, chính sách tạo môi trường pháp lý thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; đôn đốc, điều phối chung việc triển hai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia.
Ban Chỉ đạo xây dựng Chính phủ điện tử/Chính quyền điện tử của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đôn đốc, điều phối chung việc triển khai hoạt động chuyển đổi số trong phạm vi bộ, ngành, địa phương mình.
Trong quá trình triển khai, trường hợp cần thiết có sự thay đổi thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ TT&TT tham mưu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Trường hợp cần thiết có sự thay đổi thuộc thẩm quyền của các bộ, ngành, địa phương, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo xây dựng Chính phủ điện tử/Chính quyền điện tử tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
M.T

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: "Đại dịch Covid-19 tạo cơ hội trăm năm cho chuyển đổi số quốc gia"
Nhận định đại dịch Covid-19 tạo ra cơ hội trăm năm cho chuyển đổi số quốc gia, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, tất cả chúng ta sẽ phải sáng tạo ra những cách vận hành mới để cuộc sống vẫn tiếp diễn, học tập, làm việc và giải trí vẫn phải được tiếp tục.
">Phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025
Thủ tướng Chính phủ đã 5 lần yêu cầu UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ đạo lập phương án bồi thường hỗ trợ thiệt hại về đất cho 15 người. Nhưng gần 10 năm qua (từ năm 2011), UBND tỉnh vẫn chưa tổ chức thực hiện xong.
Thanh tra Chính phủ (TTCP) có báo cáo Thủ tướng kết luận về kiểm tra, rà soát việc giải quyết khiếu nại này. Tại báo cáo, TTCP khẳng định khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng, đại diện 14 người yêu cầu bồi thường giá trị sử dụng 5,4ha đất là có cơ sở.
![]() |
Khu đất 15 hộ dân đòi bồi thường suốt 10 năm, Thủ tướng 5 lần chỉ đạo đến nay UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chưa thực hiện |
Ngày 19/5, Phó Thủ tướng Thường trực có văn bản chỉ đạo UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng nêu rõ, về khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng và 14 hộ dân, Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần có ý kiến chỉ đạo giải quyết.
“Yêu cầu UBND tỉnh khẩn trương thực hiện giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại, báo cáo Thủ tướng trước ngày 31/6/2020 và thông báo kết quả giải quyết đến Phó Trưởng Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc Hội Lưu Bình Nhưỡng” – Phó Thủ tướng Thường trực chỉ đạo.
Mới đây, ngày 5/8, UBND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu có văn bản số 8044 gửi Thủ tướng, Tổng Thanh tra Chính phủ về việc báo cáo, đề xuất giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng và 14 hộ dân ở TP. Vũng Tàu.
Trong khi TTCP khẳng định khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng, đại diện 14 người yêu cầu bồi thường giá trị sử dụng 5,4ha đất là có cơ sở thì nêu tại báo cáo này theo UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, căn cứu vào hồ sơ tài liệu thu thập được trong quá trình giải quyết khiếu nại và kết quả rà soát UBND tỉnh nhận thấy không có căn cứ pháp luật để công nhận quyền sử dụng đất cũng như bồi thường giá trị quyền sử dụng đất cho các hộ.
Trong đó UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho rằng có nội dung không được nêu tại báo cáo của TTCP, mặc dù UBND tỉnh đã cung cấp thông tin cho đoàn kiểm tra của TTCP hay có thông tin mà báo cáo của TTCP chưa xem xét nhận định.
Nêu quan điểm tại văn bản này, UBND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kiến nghị Thủ tướng xem xét chỉ đạo giải quyết theo hướng: Giữ nguyên nội dung bác đơn khiếu nại yêu cầu bồi thường diện tích 54.294,5m2 đất nông nghiệp của ông Tổng và 14 hộ dân. Đồng thời kiến nghị giao UBND tỉnh xem xét, hỗ trợ cho 15 hộ dân với mức hỗ trợ bằng 50% giá đất nông nghiệp theo bảng giá đất hiện hành của tỉnh.
Yêu cầu giải quyết dứt điểm, báo cáo Thủ tướng trước ngày 30/11
Sau văn bản báo cáo trên của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ngày 29/9, Văn phòng Chính phủ tiếp tục có văn bản truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình về việc giải quyết khiếu nại của 15 hộ dân.
Văn bản tiếp tục nêu lên việc khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng và 14 hộ dân, Thủ tướng đã nhiều lần giao UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ đạo lập phương án bồi thường, hỗ trợ về đất cho 15 hộ dân theo quy định của pháp luật (từ năm 2011) nhưng đến nay chưa thực hiện.
![]() |
Phó Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, giải quyết dứt điểm vụ việc báo cáo kết quả trước ngày 30/11 |
“Yêu cầu UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khẩn trương thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các văn bản trước đó, giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại của 15 hộ dân, báo cáo Thủ tướng kết quả trước ngày 30/11 và thông báo kết quả giải quyết đến Phó Trưởng ban Dân nguyện thuộc UB Thường vụ Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng” – văn bản nêu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng.
Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên Môi trường có văn bản hướng dẫn cụ thể UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chịu trách nhiệm thực hiện giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại theo quy định. Sau chỉ đạo lần này, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu có giải quyết dứt điểm vụ việc?
Theo TTCP, Luật Đất đai của Nước CHXHCN Việt Nam qua các thời kỳ đều cấm bỏ đất hoang từ 6 tháng đến 1 năm trở lên. Các quy định pháp luật về đất đai thời kỳ trước năm 1990 không cấm cán bộ, công chức khai hoang, gia tăng hiệu quả sử dụng đất để cải thiện đời sống. Do vậy, năm 1989, nhóm người dân làm nhiều ngành nghề khác nhau gồm 6 cán bộ hưu trí, 5 cán bộ đương chức, 2 người là nông dân khi thấy đất bỏ hoang đã đứng ra xin phép UBND phường sử dụng là việc làm cần được khuyến khích. Cũng theo TTCP, theo quy định tại Khoản 4 điều 50 Luật Đất đai năm 2003 thì ông Nguyễn Văn Tổng và 14 người trong nhóm đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc được bồi thường giá trị quyền sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đúng như kiến nghị của Bộ Tài nguyên Môi trường. Khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tổng đại diện 14 người yêu cầu được bồi thường giá trị quyền sử dụng 5,4ha đất do sử dụng trước ngày 15/10/1993 là có cơ sở. |
Thuận Phong

Vũng Tàu: Dân 10 năm đòi bồi thường 5,4ha đất, Thủ tướng 5 lần chỉ đạo
- Thủ tướng 5 lần chỉ đạo UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ đạo lập phương án bồi thường hỗ trợ thiệt hại về đất cho 15 người nhưng gần chục năm qua, tỉnh chưa thực hiện xong vì nhiều quan điểm khác với kết luận của Bộ TN-MT.
">Thủ tướng 5 lần chỉ đạo Vũng Tàu vẫn kiến nghị bác bồi thường 5,4ha đất
