Khi lần đầu tiên ra mắt khán giả vào mùa hè năm 1982, Blade Runner hoàn toàn bị đánh bại ở phòng vé bởi đối thủ nặng ký E.T. (Extra-Terrestial) của đạo diễn Steven Spielberg, và đối mặt với nguy cơ trôi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, 35 năm sau đó, “đứa con thầm lặng” của Ridley Scott trong lòng phần đông khán giả lại được coi là một trong số những tác phẩm viễn tưởng có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nền điện ảnh hiện đại.

1. Một khởi đầu đầy mạo hiểm

Poster bằng tranh của Blade Runner

Chuyển thể bởi Ridley Scott từ những trang sách “Do Androids Dream of Electric Sheep?” (Liệu Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện?) của tác giả Philip K. Dick, kể câu chuyện về một viên cảnh sát có nhiệm vụ “khai tử” các người máy với hình dạng giống người đến mức khó phân biệt, có thể dễ thấy vì sao Blade Runner kén người xem đến vậy.

Vào thời điểm ra mắt của phim, tầm nhìn của Ridley Scott dường như quá liều lĩnh đối với phần đông khán giả thời đó khi miêu tả một thế giới tương lai giả tưởng cực kỳ chi tiết với phần hình ảnh đầy sự táo bạo. Không những vậy, ở đây còn có một sự mơ hồ nhất định trong việc xây dựng câu chuyện và các nhân vật.

Đây cũng chính là lý do mà phim phải chịu sự can thiệp một cách thô bạo từ phía nhà sản xuất, bị cắt ghép nhiều, thậm chí nhặt nhạnh cả cảnh trong phim The Shining (1980 – Stanley Kubrick) để phục vụ cho một cái kết “có hậu” nhàm chán.

Nhưng chính điều này lại cho Ridley Scott có cơ hội “chuộc” lại lỗi lầm của hãng phim, khi lần đầu tiên đưa khái niệm “Director’s Cut” mà chúng ta vốn đã quá quen thuộc ngày nay vào sử dụng.

Blade Runner “nổi tiếng” là một trong những tựa phim có nhiều “dị bản” nhất

Một bản phim gốc chưa qua chỉnh sửa của ông đã được phát hành lại qua đường băng đĩa chính thức, nhưng cũng chưa thực sự thỏa mãn đối với vị đạo diễn khó tính này. Trong suốt 20 năm tiếp theo đó, ông đã liên tục sửa chữa, bổ sung, và phát hành hàng loạt các bản “vá lỗi” khác nhau cho bộ phim này. Đây có lẽ chính là niềm cảm hứng bất tận cho George Lucas và hàng chục lần thay đổi Star Wars cho tới khi không còn nhận ra nổi bản gốc.

2. Đặt nền móng cho dòng phim khoa học viễn tưởng

Vậy Blade Runner “bản chuẩn” có gì mà khiến cộng đồng yêu điện ảnh phải ca ngợi hết lời trong suốt ngần ấy năm như vậy?

Nếu quên đi giọng kể chuyện vô hồn của Harrison Ford trong bản chiếu rạp và những chắp vá ngớ ngẩn của nhà sản xuất, thì phần hình ảnh của phim chính là điều đầu tiên làm nên tên tuổi của Blade Runner.

Bộ phim đã đặt nền móng cho phong cách hình ảnh đặc trưng trong dòng phim khoa học viễn tưởng với bối cảnh tương lai mang nhiều tính “hiện thực”, và có chút gì đó “hoài cổ”. Ridley Scott đã xây dựng nên một thế giới ngập tràn những tòa nhà cao ốc khuất tầm mắt, ánh đèn neon chói chang từ các biển hiệu quảng cáo khổng lồ, nhưng lại được chồng chéo lên những tòa nhà cổ xập xệ trong những khu ổ chuột nhớp nháp nghèo túng, sặc sụa khói bụi của ô nhiễm, và những đường ống lộ thiên chi chít. Thế giới của Blade Runner nghiệt ngã và tối tăm, nhưng cũng hết sức “khả thi” trong thực tế.

Sự dự đoán vị lai trong Blade Runner là “khung sườn” cho nhiều bối cảnh phim khoa học viễn tưởng sau này

Không chỉ đơn giản là tận dụng triệt để sức mạnh của công nghệ kỹ xảo hình ảnh đã từng được những Star Wars hay Alien tiên phong từ trước đó, Blade Runner có tầm cỡ rộng lớn hơn nhiều, khắc họa nên một thế giới “gần gũi” và trần trụi hơn với hiện thực vào thời điểm đó.

Đâu đấy trong những tác phẩm của lớp đạo diễn “hậu thế”, người ta có thể nhìn thấy tinh thần của Blade Runner ẩn hiện như The Matrix (1999), Dark City (1999), The Fifth Element (1997), hay thậm chí là Ghost in the Shell (1995) đến từ Nhật Bản. Những đô thị sầm uất, lớp chen lớp, với những chiếc ô tô bay lượn ngợp trời giống như Back to the Future (1985) hay kể cả là 3 phần prequel của Star Wars cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ridley Scott.

Dễ dàng nhận thấy cái chất của Blade Runner trong The Fifth Element

3. Còn nhiều nữa những giá trị nhân bản

Tuy nhiên, giá trị của Blade Runner không chỉ nằm trên một lớp bề mặt hào nhoáng và lạ lẫm, mà còn ở việc tạo điều kiện cho những câu chuyện viễn tưởng có tính hàn lâm và triết học khác có cơ hội được ra đời với tầm cỡ ngang ngửa dạng như Minority Report (2002), Total Recall (1990), hay như Inception (2010) của Christopher Nolan.

Cũng giống như Blade Runner, hầu hết những câu chuyện này đều lấy cốt lõi từ sự “hoang mang” của loài người trước tốc độ phát triển quá chóng mặt của công nghệ tiên tiến. Đó là nỗi sợ hãi về một viễn cảnh tối tăm khi những sai lầm về “con người” sẽ dẫn đến những thảm họa khôn lường từ máy móc.

Hình tượng những người máy làm phản trong Blade Runner thực sự rất ám ảnh

Đây là tư tưởng vốn đã từng được khai thác từ “buổi bình minh” của dòng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng từ đầu thế kỷ 20, tiêu biểu như tác giả Isaac Asimov với tác phẩm kinh điển I, Robot. Nhưng chỉ đến khi công nghệ thông tin trong thế giới thực đuổi kịp trí tưởng tượng của các nhà làm phim, những tác phẩm kiểu như Blade Runner, hay sau này là Terminator (1984), Matrix (1999), Ex Machina (2014) mới có cơ hội khai thác sâu hơn đề tài này, với những thay đổi nhất định phù hợp với hiện thực phát triển của cuộc sống.

Di sản mà Blade Runner để lại cho lịch sử điện ảnh là hết sức khó đong đếm, và nó sẽ còn tiếp tục len lỏi ngày càng sâu hơn vào những ngóc ngách không tưởng khác của nghệ thuật đại chúng; ngoài điện ảnh như truyện tranh, trò chơi điện tử,...

Ở thời điểm hiện tại, Blade Runner 2049 đang liên tục nhận được những tán dương bất ngờ từ phía các nhà phê bình và nhà báo, khiến cho người ta tiếp tục kỳ vọng vào một sự kế thừa xứng đáng. Nếu như chứng tỏ được giá trị của mình, tầm ảnh hưởng của tượng đài điện ảnh này sẽ còn trải dài tới những tương lai xa hơn thế.

Theo GameK

" />

Blade Runner đã “nuôi dưỡng” hàng thập kỷ nền điện ảnh Hollywood như thế nào?

Ngoại Hạng Anh 2025-03-03 06:11:10 4777

Khi lần đầu tiên ra mắt khán giả vào mùa hè năm 1982,đãnuôidưỡnghàngthậpkỷnềnđiệnảnhHollywoodnhưthếnàwinner x Blade Runner hoàn toàn bị đánh bại ở phòng vé bởi đối thủ nặng ký E.T. (Extra-Terrestial) của đạo diễn Steven Spielberg, và đối mặt với nguy cơ trôi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, 35 năm sau đó, “đứa con thầm lặng” của Ridley Scott trong lòng phần đông khán giả lại được coi là một trong số những tác phẩm viễn tưởng có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nền điện ảnh hiện đại.

1. Một khởi đầu đầy mạo hiểm

Poster bằng tranh của Blade Runner

Chuyển thể bởi Ridley Scott từ những trang sách “Do Androids Dream of Electric Sheep?” (Liệu Người Máy Có Mơ Về Cừu Điện?) của tác giả Philip K. Dick, kể câu chuyện về một viên cảnh sát có nhiệm vụ “khai tử” các người máy với hình dạng giống người đến mức khó phân biệt, có thể dễ thấy vì sao Blade Runner kén người xem đến vậy.

Vào thời điểm ra mắt của phim, tầm nhìn của Ridley Scott dường như quá liều lĩnh đối với phần đông khán giả thời đó khi miêu tả một thế giới tương lai giả tưởng cực kỳ chi tiết với phần hình ảnh đầy sự táo bạo. Không những vậy, ở đây còn có một sự mơ hồ nhất định trong việc xây dựng câu chuyện và các nhân vật.

Đây cũng chính là lý do mà phim phải chịu sự can thiệp một cách thô bạo từ phía nhà sản xuất, bị cắt ghép nhiều, thậm chí nhặt nhạnh cả cảnh trong phim The Shining (1980 – Stanley Kubrick) để phục vụ cho một cái kết “có hậu” nhàm chán.

Nhưng chính điều này lại cho Ridley Scott có cơ hội “chuộc” lại lỗi lầm của hãng phim, khi lần đầu tiên đưa khái niệm “Director’s Cut” mà chúng ta vốn đã quá quen thuộc ngày nay vào sử dụng.

Blade Runner “nổi tiếng” là một trong những tựa phim có nhiều “dị bản” nhất

Một bản phim gốc chưa qua chỉnh sửa của ông đã được phát hành lại qua đường băng đĩa chính thức, nhưng cũng chưa thực sự thỏa mãn đối với vị đạo diễn khó tính này. Trong suốt 20 năm tiếp theo đó, ông đã liên tục sửa chữa, bổ sung, và phát hành hàng loạt các bản “vá lỗi” khác nhau cho bộ phim này. Đây có lẽ chính là niềm cảm hứng bất tận cho George Lucas và hàng chục lần thay đổi Star Wars cho tới khi không còn nhận ra nổi bản gốc.

2. Đặt nền móng cho dòng phim khoa học viễn tưởng

Vậy Blade Runner “bản chuẩn” có gì mà khiến cộng đồng yêu điện ảnh phải ca ngợi hết lời trong suốt ngần ấy năm như vậy?

Nếu quên đi giọng kể chuyện vô hồn của Harrison Ford trong bản chiếu rạp và những chắp vá ngớ ngẩn của nhà sản xuất, thì phần hình ảnh của phim chính là điều đầu tiên làm nên tên tuổi của Blade Runner.

Bộ phim đã đặt nền móng cho phong cách hình ảnh đặc trưng trong dòng phim khoa học viễn tưởng với bối cảnh tương lai mang nhiều tính “hiện thực”, và có chút gì đó “hoài cổ”. Ridley Scott đã xây dựng nên một thế giới ngập tràn những tòa nhà cao ốc khuất tầm mắt, ánh đèn neon chói chang từ các biển hiệu quảng cáo khổng lồ, nhưng lại được chồng chéo lên những tòa nhà cổ xập xệ trong những khu ổ chuột nhớp nháp nghèo túng, sặc sụa khói bụi của ô nhiễm, và những đường ống lộ thiên chi chít. Thế giới của Blade Runner nghiệt ngã và tối tăm, nhưng cũng hết sức “khả thi” trong thực tế.

Sự dự đoán vị lai trong Blade Runner là “khung sườn” cho nhiều bối cảnh phim khoa học viễn tưởng sau này

Không chỉ đơn giản là tận dụng triệt để sức mạnh của công nghệ kỹ xảo hình ảnh đã từng được những Star Wars hay Alien tiên phong từ trước đó, Blade Runner có tầm cỡ rộng lớn hơn nhiều, khắc họa nên một thế giới “gần gũi” và trần trụi hơn với hiện thực vào thời điểm đó.

Đâu đấy trong những tác phẩm của lớp đạo diễn “hậu thế”, người ta có thể nhìn thấy tinh thần của Blade Runner ẩn hiện như The Matrix (1999), Dark City (1999), The Fifth Element (1997), hay thậm chí là Ghost in the Shell (1995) đến từ Nhật Bản. Những đô thị sầm uất, lớp chen lớp, với những chiếc ô tô bay lượn ngợp trời giống như Back to the Future (1985) hay kể cả là 3 phần prequel của Star Wars cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ridley Scott.

Dễ dàng nhận thấy cái chất của Blade Runner trong The Fifth Element

3. Còn nhiều nữa những giá trị nhân bản

Tuy nhiên, giá trị của Blade Runner không chỉ nằm trên một lớp bề mặt hào nhoáng và lạ lẫm, mà còn ở việc tạo điều kiện cho những câu chuyện viễn tưởng có tính hàn lâm và triết học khác có cơ hội được ra đời với tầm cỡ ngang ngửa dạng như Minority Report (2002), Total Recall (1990), hay như Inception (2010) của Christopher Nolan.

Cũng giống như Blade Runner, hầu hết những câu chuyện này đều lấy cốt lõi từ sự “hoang mang” của loài người trước tốc độ phát triển quá chóng mặt của công nghệ tiên tiến. Đó là nỗi sợ hãi về một viễn cảnh tối tăm khi những sai lầm về “con người” sẽ dẫn đến những thảm họa khôn lường từ máy móc.

Hình tượng những người máy làm phản trong Blade Runner thực sự rất ám ảnh

Đây là tư tưởng vốn đã từng được khai thác từ “buổi bình minh” của dòng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng từ đầu thế kỷ 20, tiêu biểu như tác giả Isaac Asimov với tác phẩm kinh điển I, Robot. Nhưng chỉ đến khi công nghệ thông tin trong thế giới thực đuổi kịp trí tưởng tượng của các nhà làm phim, những tác phẩm kiểu như Blade Runner, hay sau này là Terminator (1984), Matrix (1999), Ex Machina (2014) mới có cơ hội khai thác sâu hơn đề tài này, với những thay đổi nhất định phù hợp với hiện thực phát triển của cuộc sống.

Di sản mà Blade Runner để lại cho lịch sử điện ảnh là hết sức khó đong đếm, và nó sẽ còn tiếp tục len lỏi ngày càng sâu hơn vào những ngóc ngách không tưởng khác của nghệ thuật đại chúng; ngoài điện ảnh như truyện tranh, trò chơi điện tử,...

Ở thời điểm hiện tại, Blade Runner 2049 đang liên tục nhận được những tán dương bất ngờ từ phía các nhà phê bình và nhà báo, khiến cho người ta tiếp tục kỳ vọng vào một sự kế thừa xứng đáng. Nếu như chứng tỏ được giá trị của mình, tầm ảnh hưởng của tượng đài điện ảnh này sẽ còn trải dài tới những tương lai xa hơn thế.

Theo GameK

本文地址:http://game.tour-time.com/news/581b699021.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Nhận định, soi kèo Al Hussein Irbid vs Moghayer Al Sarhan, 23h45 ngày 28/2: Khó có bất ngờ

Khi FIFA Online 3 Hàn Quốc cập nhật New Impact Engine, chúng tôi đã có được những trải nghiệm ban đầu với tựa game này. Và ngay ở bài viết trải nghiệm New Impact Engine cách đây vài tháng, chúng tôi đã dự đoán có rất nhiều game thủ sẽ “quit” game vì gameplay mới tương đối khó dùng. Và sau khi New Impact Engine được cập nhật ở Việt Nam, dự đoán này đã trở nên chính xác!

Suốt từ ngày hôm qua, đi đâu chúng ta cũng gặp các chủ đề bàn tán về New Impact Engine. Nào là những hình ảnh khoe cầu thủ, khoe số tiền nhận được sau khi đền bù. Một trong những chủ đề được bàn tán nhiều nhất là việc các game thủ đòi bỏ New Impact Engine để FO3 quay lại trở lại thời điểm ban đầu, nơi mà lối đá sức mạnh vẫn lên ngôi. Dưới đây là một vài bình luận của những người chơi than thở về gameplay mới:

Tổng hợp những bình luận được ủng hộ nhất khi có ý kiến muốn đổi về Engine cũ

Vậy tại sao game thủ lại muốn bỏ game đến như vậy? Thứ nhất, họ chưa quen được với hệ thống gameplay mới. Lối đá giờ đây chậm hơn, các đường chuyền, các pha xử lý đều đòi hỏi sự chính xác và tư thế nhất định của từng cầu thủ. Quan trọng hơn, ở phiên bản này game thủ quen với lối đá dùng sức sẽ không làm nên hiệu quả như trước. Bởi vậy mới chỉ sau một ngày, các game thủ chưa kịp làm quen đã vội đòi đổi về Engine cũ để đá cho sướng!

Nhiều người chơi đang nhớ phiên bản FIFA Online 3 cũ

Chính vì lối đá khó như vậy, các bàn thắng trong New Impact Engine đến rất thấp. Hai đội thường phải kéo nhau đến các loại penalty để giải quyết và trong bối cảnh này, các game thủ không biết đá pen lại càng trở nên bực mình. Thêm vào đó, New Impact Engine đem đến quá nhiều lỗi khiến các game thủ càng chán nản và muốn bỏ game.

Thực tế, mọi thứ đều phải có sự thay đổi để đem đến sức hấp dẫn hơn cho người dùng. FIFA Online 3 không nằm ngoài xu hướng phát triển chung như vậy. Cảm giác chán hoặc hay, đó là tùy thuộc mỗi người. Tất nhiên bạn cảm thấy chán thì có thể bỏ game, nhưng trước hết hãy cố gắng chơi xem mình có phù hợp với New Impact Engine không nhé.

 

theo game4v

">

Hàng loạt game thủ muốn nghỉ game vì FIFA Online 3 New Engine

{keywords}

Cảnh sát Dubai hy vọng, phần mềm AI tiên tri mới đưa vào sử dụng sẽ giúp họ ngăn ngừa hữu hiệu các hành vi tội ác trước cả khi chúng xảy ra. Ảnh: Daily Mail

Theo công ty công nghệ Space Imaging Middle East (SIME), cảnh sát Dubai vừa đưa vào sử dụng một phần mềm AI có tên gọi là "Phỏng đoán tội ác", chuyên phân tích các hình thái từ các hệ thống cơ sở dữ liệu của cảnh sát nhằm tìm ra thời gian và thời điểm nhiều khả năng sẽ xảy ra một sự cố mới.

SIME nói, phần mềm AI "tiên tri" nói trên sử dụng các thuật toán phức tạp để đưa ra các dự đoán có độ chính xác rất cao. Công nghệ mới này do đó có thể cảnh báo các đội cảnh sát tuần tra về những địa điểm cần chú ý hơn nhằm ngăn chặn tội ác xảy ra.

"Phần mềm này thông minh khác thường với khả năng nhận diện chính xác các kiểu hành vi tội phạm phức tạp trong các sự kiện dường như không có liên quan với nhau và sau đó dự đoán khả năng tái diễn. Chúng tôi tin tưởng rằng, các phân tích chính xác này, khi kết hợp cùng vốn hiểu biết và bản năng của các sĩ quan cảnh sát giàu kinh nghiệm, sẽ tạo thành lực lượng chống tội phạm hùng mạnh", đại diện SIME nhấn mạnh.

Ý tưởng dùng AI đã dấy lên nhiều tranh cãi trong vài tháng trở lại đây khi một số người cho rằng, việc đó có thể đi kèm với những hậu quả không mong muốn hoặc thậm chí được triển khai với sự kỳ thị về sắc tộc.

Hồi tháng 9, các nhà nghiên cứu đã công bố một báo cáo nhận định, công nghệ AI sẽ có tác động tích cực đến việc phòng chống tội phạm.

Họ giải thích: "AI đã được dùng để chống lại các hành vi phạm tội có động cơ tài chính, chẳng hạn như lừa đảo, và rà quét mạng xã hội để ngăn chặn những người có nguy cơ bị ISIS hay các tổ chức bạo lực, cực đoan khác chiêu mộ. Các cơ quan hành pháp ngày càng quan tâm đến việc dùng công nghệ này để phát hiện các kế hoạch tổ chức hoạt động phá hoại trên mạng xã hội cũng như  giám sát hành vi tại các cuộc tụ họp đông người để xem xét tình hình an ninh, xác định cách kiểm soát và bảo đảm an toàn cho đám đông".

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khuyến cáo, việc dùng AI cũng có thể khiến hàng triệu người có nguy cơ mất việc. Rốt cuộc, sự chấp nhận hay phản đối của xã hội với các công nghệ AI sẽ quyết định thành công của chúng.

Tuấn Anh(Theo Daily Mail)

">

Cảnh sát Dubai tung phần mềm 'tiên tri' về tội ác sắp xảy ra

Nhận định, soi kèo Napredak Krusevac vs Tekstilac Odzaci, 22h59 ngày 27/2: Trận đấu cân bằng

Là dòng màn hình tối ưu cho công việc, ThinkVision E2054 sở hữu hàng loạt tiện ích chuyên nghiệp giúp nâng cao hiệu suất sử dụng và mang lại hiệu quả tối đa cho người dùng.

Kiểu dáng chuyên nghiệp

ThinkVision E2054 là mẫu màn hình được Lenovo thiết kế hướng đến nhóm khách hàng doanh nghiệp đang tìm kiếm một sản phẩm không chỉ cho chất lượng hình ảnh tốt, mà còn sở hữu kiểu dáng chuyên nghiệp cùng nhiều tiện ích hữu dụng. Ngay từ ngoại hình, ThinkVision E2054 đã toát lên sự nhã nhặn với vỏ ngoài tông màu đen tuyền, rất phù hợp với không gian của các văn phòng hiện đại.

{keywords}

ThinkVision E2054 tối ưu cho công việc

Sản phẩm cũng thể hiện sự cứng cáp cần thiết nhờ lối thiết kế khung hình vuông vức tông xuyệt tông với phần chân đế kích thước lớn, vững chãi, độ bám cao tạo sự chắc chắn cho khung hình. Bên cạnh đó, bề mặt màn hình cũng được nhà sản xuất phủ một lớp chống chói mịn màng giúp giảm thiểu tối đa hiện tượng bóng lóa, đảm bảo cho hình ảnh luôn sáng rõ mà không hề làm giảm độ chi tiết hình ảnh như một số sản phẩm khác.

Bề mặt chống lóa của màn hình kết hợp với phần khung viền đen nhám của ThinkVision E2054 còn giúp người dùng tập trung hơn vào công việc vì phần viền đen nhám sẽ ít bị phản xạ ánh sáng hơn những màn hình có phần khung viền bạc hay trắng.

Bên cạnh đó, ThinkVision E2054 cho phép tùy chỉnh độ nghiêng khung hình ra trước/sau một cách dễ dàng với góc nghiêng tới 22 độ về sau và 5 độ về trước mang lại góc nhìn tối ưu trong mọi tình huống. Nếu muốn, người dùng cũng có thể gắn màn hình lên tường để tiết kiệm diện tích tối đa thông qua phụ kiện tùy chọn - giá treo VESA bracket. Cổng kết nối VGA thông dụng giúp thiết bị luôn sẵn sàng tương thích với mọi nguồn phát từ PC đến Laptop.

{keywords}

Chân đế linh hoạt giúp dễ dàng điều chỉnh góc nhìn theo ý muốn

Tiện ích tối ưu

Với kích thước 19.45-inch, mẫu màn hình của Lenovo mang lại diện tích hiển thị rộng rãi. Các văn bản, file tài liệu, bản vẽ kiến trúc hay cả những bảng tính Excel với nhiều số liệu hàng/cột cũng được hiển thị gần như đầy đủ, không tốn quá nhiều thao tác kéo thanh trượt. Độ phân giải 1440x900 pixel kết hợp với tỉ lệ 16:10 đảm bảo cho các nội dung luôn hiển thị chuẩn xác. Tỷ lệ khung hình rộng 16:10 rất thích hợp cho người dùng cần một “không gian” làm việc thật thoải mái để bố trí nhiều cửa sổ giao diện làm việc trên cùng một màn hình.

Sử dụng tấm nền cao cấp IPS, ThinkVision E2054 cho màu sắc rất trung thực, tự nhiên, chi tiết, sắc nét và đặc biệt là góc nhìn tuyệt vời, gần như không bị biến đổi về màu sắc, độ tương phản ở cả những góc khó nhất. Đây là những ưu điểm tuyệt đối của tấm nền IPS so với các màn hình sử dụng tấm nền TN, yếu tố cực kỳ quan trọng với người dùng trong lĩnh vực in ấn, thiết kế. Ngay cả khi quan sát từ một góc hẹp (178 độ theo cả phương ngang cũng như phương dọc), hình ảnh vẫn giữ nguyên chất lượng.

ThinkVision E2054 có thể tái tạo tới 16,7 triệu màu, 72% dải màu chuẩn NTSC đáp ứng gần như mọi nhu cầu về hình ảnh. Độ sáng tối của sản phẩm lên tới 250 nit, đi kèm độ tương phản cực cao 1000:1 khiến hình ảnh luôn rõ nét, trong trẻo dù có nguồn sáng mạnh chiếu thẳng vào màn hình hay khi làm việc ngoài trời. Ánh sáng phát ra từ 2 màn hình dễ chịu, có thể sử dụng lâu trong môi trường tối mà không bị chói hay mỏi mắt. Khả năng phản hồi của thiết bị đáng nể với 7ms, loại bỏ gần như hoàn toàn hiện tượng “bóng ma”, mờ nhòe trong những khung hình chuyển động nhanh.

{keywords}

Chất lượng hiển thị tuyệt vời nhờ tấm nền IPS cao cấp

Mức tiêu thụ điện tối đa chỉ 20W khi hoạt động hết công suất và dưới 0,5W nếu ở chế độ chờ của sản phẩm này giúp người dùng chẳng cần phải đắn đo suy nghĩ việc tắt hẳn màn hình khi không sử dụng. Ngoài ra, ThinkVision E2054 cũng đạt hàng loạt các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường mới nhất như Energy Star 6.0, EPEAT Sliver, TCO, CEL Tier 1, RoHS… đảm bảo yêu cầu khắt khe của doanh nghiệp. Với mức giá chỉ khoảng 1,89 triệu đồng, ThinkVision E2054 là lựa chọn đáng cân nhắc cho các doanh nghiệp đang tìm kiếm một mẫu màn hình tối ưu cho công việc.

Doãn Phong

">

ThinkVision E2054, màn hình tối ưu cho công việc

">

Galaxy Note 7 phát nổ: Samsung Bắc Ninh báo lỗ 3.000 tỷ đồng, sụt giảm 30.000 tỷ doanh thu

友情链接