

Từ: Bộ phận tuyển sinh Harvard
Gửi: Công ty Quản lý Harvard
Đã vài tuần đau khổ kể từ khi Steve Schwarzman tiết lộ rằng chúng tôi đã từ chối ông vào niên khóa 1969. Như tất cả chúng ta biết, tỷ phú quỹ tư nhân (có giá trị ròng 13 tỷ đô la và còn đang leo cao) từng lên sóng kênh Bloomberg và chia sẻ rằng giám đốc tuyển sinh Harvard từng viết thư cho ông cách đây vài năm để nói rằng: “Tôi nghĩ rằng chúng tôi đã phạm sai lầm”. Ông cũng vừa thông báo dành tặng món quà 150 triệu đô la cho Yale để dựng một tượng đài cho sự ngu xuẩn của chúng tôi.
Chúng tôi, với nhiệm vụ tuyển sinh, đã hoàn tất việc xem xét yêu cầu của các ông về những trường hợp sai lầm này. Chúng tôi đưa ra kết luận như sau: a) Chúng tôi phải nâng cao nỗ lực tự hạ mình, b) Quy trình tuyển sinh của Harvard phải được đại tu.
Những sai lầm như thế này chứng minh một điều rằng quy trình tuyển sinh hiện tại được thiết kế không đủ hoàn hảo để phát hiện và mỉm cười với những đứa trẻ có khả năng trở thành tỷ phú.
Dự đoán giá trị (đô la) trong tương lai của một đứa trẻ 17 tuổi không phải là vấn đề đơn giản. Chúng tôi, với nhiệm vụ tuyển sinh, đã làm theo yêu cầu của Công ty Quản lý Harvard, đọc những thống kê mà các ông đã rất tử tế gửi qua, và chúng tôi đã xây dựng một quy trình mới. Sau khi thử nghiệm với một thế hệ sinh viên đại học, nó cho thấy hiệu quả cao hơn trong việc xác định “các mục tiêu tiềm năng” hơn bất cứ quy trình lựa chọn nhân tài nổi tiếng nào khác.
Cụ thể, mô hình mới của chúng tôi đã giúp chúng tôi khám phá ra mối tương quan tích cực và khăng khít giữa 3 nét tính cách dưới đây với khả năng đẻ ra những khối tài sản khổng lồ, đặc biệt là tài sản trên phố Wall. Ba tính cách đó gồm có:
1. Tự tôn. Từ những chia sẻ công khai của tỷ phú Steve Schwarzman, chúng ta biết rằng năm 17, 18 tuổi, ông đã rất chắc chắn về việc Harvard đã sai lầm khi từ chối ông và ông đã gọi trực tiếp cho giám đốc tuyển sinh để nói với điều đó.
Trước đây đã từng có một số trường hợp như thế ở Harvard. Một đứa trẻ có khả năng kiếm tiền xuất sắc khi lớn lên dường như có tương quan mạnh mẽ với khả năng đứa trẻ đó thách thức các lãnh đạo khi họ không cho đứa trẻ đúng cái nó muốn.
Giống như tất cả tính cách khác, tính tự tôn rất khó nhận ra. Nhưng chúng tôi đã tìm ra một cách: chính là khảo sát các hiệu trưởng trường trung học. Ở mỗi lớp trung học đều có 1, 2 học sinh tìm cách thuyết phục hiệu trưởng rằng em đó “đồng cảm” với những vấn đề mà hiệu trưởng đang phải đối mặt. Những em này sẽ “mò” tới văn phòng hiệu trưởng để đưa lời khuyên, hay đơn giản là giả vờ đồng cảm với bất cứ vấn đề gì đang làm phiền lòng vị hiệu trưởng. Cậu ta/ cô ta khăng khăng như thể mình đang là “ông chủ” – mà không hề quan tâm tới việc mình đang làm phiền vị lãnh đạo như thế nào. Chúng ta đã mất nhiều tỷ phú phố Street tương lai đơn giản chỉ vì một số hiệu trưởng đã nhận xét trong học bạ những học sinh như thế này là “phiền toái”.
2. Cần được công nhận. Tất nhiên từ trước tới giờ chúng ta đã sàng lọc yếu tố này, nhưng lại làm một cách gián tiếp qua việc đặt nặng điểm số của một đứa trẻ. Sự thành công trong lớp học có thể chỉ đơn giản là nhờ trí thông minh, hay tệ hơn là học lệch. Ví dụ, thành tích học tập cao có thể khiến chúng ta nhận chủ nhân giải Nobel, nhà hóa học Martin Chalfie hay nhà soạn nhạc giành giải Pulitzer John Adams niên khóa 1969. Nhưng cả hai người trong số họ sẽ không mang lại cho Harvard bất cứ cái gì giống như 150 triệu đô. Những nhân vật này đã cướp đi của Schwarzman và những người khác giống ông những chỗ ngồi xứng đáng nhất ở Harvard.