Một trong những lý do khiến PGS Nguyễn Thời Trung, Trường ĐH Tôn Đức Thắng, bị Hội đồng GS ngành Cơ học loại khỏi danh sách xét GS năm 2020 là do số lượng bài báo khoa học công bố quá nhiều và tăng đột biến. Năm 2019, PGS Nguyễn Thời Trung công bố 48 bài báo. Năm 2020, chỉ tính đến tháng 9, PGS Nguyễn Thời Trung đã công bố 77 bài báo.GS.TSKH Phạm Đức Chính, Viện Cơ học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cho hay, đây con số kỷ lục và bản thân ông rất bất ngờ về việc này.
![{keywords}](https://vnn-imgs-f.vgcloud.vn/2020/10/15/16/cac-nha-khoa-hoc-noi-gi-khi-pgs-cong-bo-77-bai-bao-trong-9-thang.jpg) |
Nhiều ứng viên GS, PGS bị loại vì công bố khoa học quá nhiều trong thời gian ngắn |
Ngoài ra, năm nay Hội đồng GS ngành Y học cũng loại 5 ứng viên khỏi danh sách xét GS, PGS dù trước đó đã được Hội đồng GS Cơ sở thông qua.
GS.TS Đặng Vạn Phước, Chủ tịch Hội đồng GS ngành Y học cho hay các ứng viên bị loại do chiếu theo tiêu chuẩn “cứng” đã quy định như như GS phải có sách chuyên khảo, PGS thì phải có số giờ giảng theo quy định. Ngoài ra một số ứng viên công bố số bài báo khoa học quá nhiều trong thời gian quá ngắn.
“Có ứng viên chỉ trong nửa năm công bố từ 4-5 chục (40-50) bài báo khoa học, đây là điều không thể và thực sự không ai có thể làm được như vậy”- GS Phước nói.
77 bài báo trong 9 tháng: Rất khó
Nhìn nhận về việc công bố 77 bài báo khoa học trong 9 tháng, GS Nguyễn Đăng Hưng, nhà Cơ học người Việt tại ĐH Liège, Vương quốc Bỉ, cho rằng điều này là không thể xảy ra trong khoa học tính toán.
Theo GS Hưng, Cơ học là tính toán và khi tính toán thì phải thử nghiệm trên máy tính nên rất kỳ công. Ở ngành Cơ học, để công bố một bài báo thông thường, nhà nghiên cứu nếu làm tốt nhất cũng phải mất 6 tháng. Có những bài báo, nhà nghiên cứu phải mất 1-2 năm mới công bố được.
“Khoa học tính toán là phải lập trình, mà muốn một lập trình chạy thì mất khoảng 3 tháng và phải thử chạy trong nhiều tình huống khác nhau. Chạy 1 lần không đủ, chạy 2 lần cũng không đủ và thậm chí phải chạy tới 5 lần đến khi kết quả tốt mới xem là thực tế khoa học và đưa ra công bố”- GS Hưng nói.
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cho rằng công bố 77 bài báo khoa học trong 9 tháng nếu là thực chất thì tác giả là người “quá phi thường” hoặc “siêu nhân”. Tuy nhiên, GS Hưng nhìn nhận không thể có 77 bài báo khoa học trong 9 tháng.
“Ngay cả chuyện thẩm định nghiên cứu trước khi công bố cũng mất rất nhiều thời gian. Những nhà khoa học đàng hoàng họ thẩm định kỹ lưỡng chứ không cảm tính hay chung chung. Do vậy thẩm định 1 bài báo có thể mất tới cả tuần lễ"- GS Hưng nói.
Còn GS Trương Nguyện Thành, ĐH Utah (Mỹ), cho hay một nhà nghiên cứu công bố 77 bài báo khoa học trong 9 tháng là điều rất khó. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác và khách quan cần trả lời rất nhiều câu hỏi.
Trước hết là xác định hồ sơ các bài báo của nhà nghiên cứu này, nhóm có bao nhiêu nghiên cứu sinh, có bao nhiêu luận án tiến sĩ, những bài báo đã công bố từ những nghiên cứu sinh nào...
Ngoài ra, GS Trương Nguyện Thành cũng cho rằng, với những bài báo đã công bố, cần xem rõ nếu là hợp tác nghiên cứu thì hợp tác với ai và cần liên hệ với những người hợp tác nghiên cứu để lấy thông tin đối chứng.
Đặc biệt, phải trả lời được câu hỏi kinh phí những nghiên cứu này lấy từ đâu và các bài báo này đăng ở những tạp chí nào. Khi trao đổi với các giáo sư trên thế giới, họ có biết hoạt động của nhóm hay không và có trao đổi khoa học trực tiếp không và những giáo sư này đánh giá như thế nào về chuyên môn của họ?.
GS Trương Nguyện Thành cho hay, để có 1 bài báo khoa học được công bố đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu. Ở Mỹ, trung bình một luận án tiến sĩ (1 tiến sĩ) sẽ có khoảng 4 bài báo trong thời gian 5 năm.
“Nếu một Phó Giáo sư ngành kỹ thuật mà công bố 77 bài báo trong 9 tháng thì các đại học hàng đầu ở Mỹ sẽ chiêu dụ ngay lập tức”- GS Thành nói.
Theo GS Trương Nguyện Thành, nhà nghiên cứu nên giải trình về đóng góp của mình trong những bài báo này và tại sao lại có thể đạt được thành quả như thế. Những dữ liệu tính toán cho nghiên cứu thực hiện như thế nào, ở đâu để đánh giá chính xác vấn đề này.
Không thể dựa vào cảm nhận "vậy là nhiều" và "vậy là ít"
GS Nguyễn Văn Tuấn, công tác tại Garvan, Úc, cho rằng có nhiều vấn đề liên quan đến chuyện công bố khoa học. Thứ nhất, nếu loại bỏ ứng viên chỉ vì họ công bố nhiều quá thì điều đó gián tiếp nói lên rằng tiêu chuẩn đề bạt chức vụ GS đặt nặng số lượng. Nếu quá đặt nặng vào số lượng bài báo khoa học là một sai lầm.
Thứ hai, về số lượng cần phải xem xét từng trường hợp, không thể dựa vào cảm nhận "vậy là nhiều" và "vậy là ít".
"Nếu ứng viên có Laboratory (phòng thí nghiệm) tương đối lớn, như 10 thành viên thì một năm công bố 10-20 bài là chuyện bình thường. Nếu ứng viên có labo nhỏ nhưng có hợp tác rộng rãi, theo kiểu "liên minh khoa học" hay consortium (tổ hợp) thì một năm có 20-30 bài đồng tác giả cũng là bình thường"- GS Tuấn nói.
Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, nếu ứng viên không có Laboratory riêng, không có nhóm nghiên cứu mà mỗi năm có hơn 20 bài nghiên cứu thì có thể cần phải xem lại những bài đó công bố ở đâu; sản phẩm chất lượng khoa học ra sao bởi có những tập san "dỏm", công bố nhiều bài chỉ để thu ấn phí nhưng không có cơ chế bình duyệt nghiêm chỉnh. Như vậy, những bài công bố trên những tập san ấy sẽ không có ý nghĩa gì.
GS Tuấn cho rằng, vấn đề kế đến là xem xét vai trò và quá trình nghiên cứu của tác giả. Có những tác giả chỉ đóng vai trò khiêm tốn trong bài báo, không phải là người chủ trì nghiên cứu hay điều hành dự án. Có những tác giả chưa bao giờ công bố bài báo nhưng đột nhiên công bố hàng chục bài trong một thời gian ngắn cũng cần phải có lời giải thích.
"Đề bạt chức vụ giáo sư không nên chỉ dựa vào số lượng bài báo khoa học, mà còn phải xét đến phẩm chất khoa học và uy danh trong chuyên ngành. Phẩm chất khoa học có thể xem qua những tập san họ công bố, số trích dẫn (hay chỉ số H), ai trích dẫn và số lần tự trích dẫn. Nếu làm cẩn thận và đúng phương pháp thì cho dù họ có công bố nhiều trăm bài cũng không thể bù đắp cho sự hụt hẫng về phẩm chất khoa học được"- GS Tuấn nhận định.
Ngoài ra theo GS Tuấn, nhà khoa học không phải chỉ tối ngày lo công bố bài báo làm đẹp lí lịch của mình mà họ còn phải chứng tỏ có đóng góp cho chuyên ngành qua các hoạt động trong vai trò lãnh đạo các hiệp hội quốc tế.
Về trường hợp của PGS Nguyễn Thời Trung, GS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng, cần xét 103 bài báo công khai trong hồ sơ. Nếu lấy lý do ứng viên có quá nhiều bài và bị loại là không đáng.
Lê Huyền
![Người có nhiều trích dẫn trên thế giới bị loại khỏi danh sách xét GS](https://vnn-imgs-f.vgcloud.vn/2020/10/13/10/vi-sao-nha-khoa-hoc-co-trich-dan-nhieu-nhat-the-gioi-bi-loai-khoi-danh-sach-xet-gs.jpg?w=145&h=101)
Người có nhiều trích dẫn trên thế giới bị loại khỏi danh sách xét GS
Vì sao Phó Giáo sư (PGS) Nguyễn Thời Trung, Trường ĐH Tôn Đức Thắng - nhà khoa học từng lọt tốp những nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất trên thế giới bị loại khỏi danh sách xét công nhận chức danh Giáo sư (GS) năm 2020?
" alt=""/>Ứng viên GS bị loại vì công bố 77 bài/9 tháng, các nhà khoa học nói gì?
Thầy Đỗ Anh Đức, giảng viên Viện Báo chí và Truyền thông (ĐH Khoa học xã hội và nhân văn) thì chia sẻ, khi bắt đầu dạy học online, cái khó nhất là… phải tưởng tượng.“Khi trước mặt mình là cái camera chứ không phải học sinh thì cách giảng phải thay đổi, vì nếu bê nguyên xi cách dạy trực tiếp vào dạy online sẽ rất mệt và không hiệu quả”.
Theo thầy Đức, khi dạy trực tuyến, người dạy không chỉ phải tiếp thu công nghệ mà còn phải thay đổi bản thân, cách thức giảng dạy… “Giảng trực tiếp có ngữ cảnh nói, còn online thì không. Khi dạy online, lời nói của người giảng phải ít hơn nhưng ý nghĩa hơn, tác động được tới học viên, sơ ý là mất tập trung ngay lập tức”.
![{keywords}](https://vnn-imgs-f.vgcloud.vn/2020/11/19/23/tu-ong-do-den-nguoi-thay-chuyen-doi-so-1.jpg) |
Khi trước mặt là cái camera, người thầy phải thay đổi cách giảng bài |
TS Nguyễn Năm Hoàng, Khoa Văn học Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội, cũng chỉ ra những rào cản, thách thức khi mới bắt đầu dạy học trực tuyến.
“Thứ nhất, nếu chúng ta không biết cách tổ chức lớp học trực tuyến hay giao tiếp hiệu quả với sinh viên, sẽ làm giảm hứng thú, cảm xúc của chính mình và người học. Thứ hai, trong cuộc sống nhiều người cảm thấy ngần ngại khi phải học cách làm chủ các phương tiện, công nghệ. Thứ ba, chúng ta phải đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất giảng dạy như đường truyền internet, thiết bị...” – chị Hoàng phân tích.
Tuy nhiên, chị cũng khẳng định việc nhà trường triển khai giảng dạy E-learning giúp cả thầy và trò tận dụng những lợi thế của công nghệ và môi trường mạng để nâng cao việc dạy và học.
Giảng viên phải làm chủ công nghệ
Còn từ góc độ người quản lý, theo ông Đỗ Văn Dũng – Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, nhận xét rằng mặc dù đã chủ động, điều chỉnh từng bước nhưng nhiều giảng viên không thích nghi kịp với công nghệ mới. Vì vậy, điều nan giải cho các trường là tốn thêm chi phí thuê nền tảng công nghệ hằng năm để hoạt động. Trong khi đó, giảng viên phải được tập huấn công nghệ liên tục, đôi khi gây áp lực, quá tải.
“Tại Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, số giảng viên tham gia dạy học số có sự tăng trưởng mạnh mẽ chỉ sau vài năm. Theo thống kê của nhà trường, nếu như học kỳ I năm học 2014-2015 chỉ có 17 người thì đến học kỳ 1 năm 2017-2018, hầu hết giảng viên đã sử dụng nền tảng, công cụ dạy học số để tăng cường chất lượng dạy học. Tới nay, con số này là khoảng 700 giảng viên” – ông Dũng cho biết.
Theo ông Dũng, “Giảng viên phải năng động, chủ động làm chủ công nghệ. Các trường phải đầu tư server và trung tâm big data tốt, cùng với đó là xây dựng trường quay bài giảng. Tất cả phải thay đổi tư duy về dạy học số mới thực hiện được”.
Đồng quan điểm, ông Phạm Thái Sơn, giảng viên Trường ĐH Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM khẳng định người thầy đóng vai trò rất quan trọng trong sự chuyển đổi số.
"Các thầy cô bắt buộc phải chuyển đổi số trước khi muốn mọi người chuyển đổi. Hiện tại, các trường đã và đang chuyển đổi tư duy sang tư duy số, các trường đang xây dựng mô hình số hóa bài giảng, tài liệu học tập..., những cái mà từ xưa đến nay vẫn sử dụng sang sử dụng tài nguyên số.
Ông Phạm Thái Sơn nhận định các thầy cô không chuyển đổi hoặc chuyển đổi số nửa vời sẽ làm cho quá trình này bị đình trệ.
"Các thầy cô thuộc thế hệ cũ và không sử dụng công nghệ thì khó khăn trong giảng dạy. Việc này với giảng viên trẻ thì dễ dàng hơn. Yếu tố công nghệ và sử dụng công nghệ sẽ quyết định sự thành bại của quá trình chuyển đổi số" - ông Sơn khẳng định.
Theo ông Sơn, ngày nay, ngoài kiến thức chuyên môn, giảng viên cần phải biết thêm kiến thức về công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
"Khi sinh viên thường xuyên tiếp cận với công nghệ thì cho dù giảng viên có thể không rành rọt về công nghệ thông tin nhưng phải biết đủ để sử dụng. Thầy cô phải mạnh dạn bước ra khỏi "vùng an toàn" trước đây để theo kịp với những thay đổi của thời đại".
Phương Chi
![Chuyển đổi số giáo dục để Việt Nam phát triển hùng cường, thịnh vượng](https://vnn-imgs-f.vgcloud.vn/2020/12/09/15/dsc6509.jpg?w=145&h=101)
Chuyển đổi số giáo dục để Việt Nam phát triển hùng cường, thịnh vượng
Giáo dục, nhất là giáo dục đại học sẽ là nền tảng quan trọng để Việt Nam bứt phá vươn lên và phát triển hùng cường, thịnh vượng. Việc đổi mới giáo dục, đại học Việt Nam chỉ có thể thực hiện thông qua chuyển đổi số.
" alt=""/>Dạy học online: Những ngần ngại ban đầu và nỗ lực của người thầy