Cô cho biết, bản thân mong muốn xoá bỏ những định kiến trong cuộc đời: “sinh có hẹn, tử bất kỳ” vì vậy sống làm người tử tế, khi chết đi vẫn có thể cứu giúp và đem lại sự sống cho nhiều người khác.
![]() |
"Đây là điều mà Hương ước nguyện đã lâu và sang tuổi mới đã làm để cảm thấy giá trị cuộc sống biết trân trọng hơn", cô chia sẻ. |
“Hiến tặng những thứ quý giá của mình để cứu mạng người khác thì cớ chi không làm. Không ai biết ngày mai ta sẽ ra sao nên hãy làm điều gì đó tử tế khi còn có thể... đây là điều mà Hương ước nguyện đã lâu và sang tuổi mới đã làm để cảm thấy giá trị cuộc sống biết trân trọng hơn. Hạnh phúc lắm”, nữ diễn viên xúc động.
Trước Minh Hương, nhà báo - BTV Tạ Bích Loan của VTV cũng đã đăng kí hiến tạng sau khi qua đời. BTV Minh Hà, Hạnh Phúc làm đơn hiến giác mạc.
![]() |
Nữ diễn viên Minh Hương chia sẻ hình ảnh đi đăng kí hiến tạng. |
Theo Minh Hà, người truyền cảm hứng cho cô trong quyết định lần này chính là TS. BS Lê Xuân Cung - người trực tiếp thực hiện 1 trong 2 ca ghép giác mạc của bé Hải An. Trong đó có 1 cụ bà 73 tuổi và 1 nam giới 42 tuổi . Cả hai sau nhiều thập kỷ sống trong bóng tối thì giờ đã được nhận ánh sáng.
Trong phần 1 của bộ phim truyền hình “Nhật ký Vàng Anh”, Minh Hương được chọn vào vai chính Vàng Anh. Trước khi tham gia vào bộ phim, Minh Hương đang theo học tại Nhạc viện Hà Nội.
Từ một sinh viên âm nhạc dân tộc cho đến một diễn viên rồi lại trở thành một MC truyền hình - mỗi bước ngoặt Minh Hương đều coi đó là một sự cố gắng trong cuộc sống. Hiện tại, Minh Hương đảm nhận vai trò người dẫn chương trình của Truyền hình công an nhân dân và có cuộc sống hạnh phúc viên mãn bên chồng, con.
(Theo Dân Trí)
" alt=""/>Vàng Anh Minh Hương hiến tặng mô tạng khi chết não
Cuối năm 2019 MobiFone Global cùng Công ty dịch vụ MobiFone khu vực 9 – đơn vị đại diện cho Tổng công ty MobiFone tham gia triển lãm nông nghiệp tại Vĩnh Long và giới thiệu một số giải pháp ứng dụng CNTT, IoT để quan trắc, giám sát vào lĩnh vực nông nghiệp.
Tại đây, lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long đã gặp gỡ, chia sẻ mong muốn MobiFone vào khảo sát để xây dựng giải pháp cảnh báo nhiễm mặn tự động. Khi đó, tình hình nhiễm mặn đang ngày một tăng cao tại các huyện Vũng Liêm, Mang Thít, Trà Ôn… thuộc địa bàn tỉnh Vĩnh Long, đã ảnh hưởng lớn đến nuôi trồng cũng như sinh hoạt của người dân. Tại các địa phương vẫn áp dụng phương pháp lấy mẫu đo thủ công nên tính chính xác và tính kịp thời còn nhiều hạn chế. Các mẫu đo độ nhiễm mặn lúc được thực hiện một lần vào 7h sáng hàng ngày sau đó chuyển kết quả cho chính quyền để thông báo tới dân.
Sau quá trình làm việc với lãnh đạo địa phương, MobiFone Global cùng Công ty dịch vụ MobiFone khu vực 9 đã khảo sát và trình bày giải pháp sẽ triển khai tại huyện Mang Thít. Sau khi được sự chấp thuận của lãnh đạo huyện Mang Thít, MobiFone đã hiện thực hóa giải pháp và đã lắp đặt đưa vào khai thác từ 15/5/2020 tại trạm Chánh An thuộc xã Chánh An.
Giải pháp quan trắc tự động của MobiFone Global xây dựng được sử dụng các cảm biến có độ chính xác rất cao, kiểm chứng so sánh với kết quả đo thủ công và qua hệ thống đã thấy sự khác biệt rất lớn. Hệ thống đo đếm được các giá trị độ mặn thấp mà các thiết bị đo cầm tay của chính quyền không đo được.
Đại diện MobiFone Global cho biết, thiết bị cảm biến này sẽ thu thập và dữ liệu được truyền tự động qua kết nối di động về data center của MobiFone theo tần suất 1 phút/lần. Hiện hệ thống đo 4 chỉ số là mực nước, áp suất, nhiệt độ và độ mặn. Các dữ liệu này, trong đó độ mặn là tham số quan trọng nhất sẽ được lưu trữ và phục cho công tác phân tích trong điều hành sản xuất cũng như phục vụ thông tin trong dân sinh tại địa phương.
Thông qua giải pháp này, người dân và chính quyền có thể lấy số liệu đo độ mặn của nước trên nền tảng web thông qua trình duyệt hoặc qua các ứng dụng (App) cài đặt trên smartphone để lấy số liệu theo thời gian thực một cách thuận tiện. Và việc lấy số liệu diễn ra vô cùng dễ dàng nhờ hệ thống do MobiFone triển khai.
Như vậy, nếu như trước đây người dân không chủ động được việc lấy số liệu về độ nhiễm mặn để phục vụ sản xuất và sinh hoạt thì hiện tại thông qua giải pháp này, người dân đã chủ động hoàn toàn thông tin cũng như tính khách quan do chỉ số được hiển thị tự động theo thời gian thực.
Theo lãnh đạo huyện Mang Thít, hệ thống đo độ nhiễm mặn của MobiFone triển khai tại xã Chánh An đã phát huy hiệu quả tốt cho chính quyền và người dân. Kế hoạch sắp tới, huyện sẽ mở rộng các điểm đo độ nhiễm mặn để xây dựng bản đồ nhiễm mặn trên địa bàn huyện. Hệ thống này sẽ đưa ra dữ liệu chính xác, giúp chính quyền địa phương đưa ra các quyết định trọng việc điều hành sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh của địa phương.
“Việc triển khai thành công giải pháp đo độ nhiễm mặn tại Vĩnh Long đã mở thêm hướng đi để MobiFone có thể ứng dụng nhiều hơn nữa CNTT, IoT, AI… vào sâu hơn trong cuộc sống. MobiFone cũng có thể mở rộng cung cấp các dịch vụ tương tự để ứng dụng trong lĩnh vực khác như: Nông nghiệp thông minh, công nghiệp… Điều đó thể hiện khi một số hộ dân muốn triển khai hệ thống cảnh báo này cho các đầm nuôi trồng thủy sản của họ”, đại diện MobiFone Global nói.
Nguyễn Thái
Ngày 11/12, tại Diễn đàn Quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số, nền tảng bản đồ số Map4D của Công ty TNHH IoTLink đã xuất sắc đạt Giải Đồng Nền tảng số xuất sắc 2021.
" alt=""/>Triển khai hệ thống đo tự động giúp Vĩnh Long chống nhiễm mặnVì tiếng Nghệ về giọng điệu phát âm đã khác, nặng tiếng mà không rõ lời, còn về từ ngữ lại đặc tính địa phương. Chẳng thế mà có lẽ chỉ duy nhất tiếng Nghệ là có hẳn một từ điển để tra cứu, cứ như đó là một thứ “ngoại ngữ” vậy. Lại không chỉ một, mà có đến hai cuốn "Từ điển tiếng Nghệ”. Khiếp chưa!
Dân Hà Tĩnh nói riêng, dân Nghệ nói chung, biết ơn nhạc sĩ Nguyễn Vãn Tý đã đưa hai chữ “đi mô” vào câu ca mở đâu bài hát nổi tiếng “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh” vang động khắp nước từ đầu thập niên 1970 đến nay.
“Đi mô” trở thành đặc hiệu nhận diện của một vùng quê. “Đi mô” cũng đóng đinh một bài “tỉnh ca” duy nhất có phương ngữ của nơi đó. Dân “đi mô" còn tự hào đùa vui rằng: Trong câu mở đầu bài hát “Nhớ về Hà Nội” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp (“Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội”) thì nửa vế đầu là diễn dịch cái ý “đi mô” mà thôi, nhưng lại chẳng có được từ “đi mô”, rứa là vẫn chưa đặc trưng, chưa có được cái riêng chỉ của một vùng thể hiện trong lời ăn tiếng nói. Mà “đi mô” là khẳng định tuyệt đối nhé, chứ “Dù” thì vẫn là cách nói điều kiện, nhượng bộ. Rồi nữa, “Trời mô xanh bằng trời Can Lộc, Nước mô trong bằng nước sông La” (Bài hát “Người con gái sông La” - lời Phương Thúy, nhạc Doãn Nho), khác với “Không thể nói trời không xanh hơn, Và mắt em trong sáng khác ngày thường” (Bài hát "Cảm xúc tháng Mười” - lời Tạ Hữu Yên, nhạc Nguyễn Thành). Chuyện so sánh đùa vui nhưng cũng cho thấy nét riêng trong cách nói cách cảm của mỗi vùng miền đất nước ta.
Mà đâu chỉ đùa trong nước, đùa cả ra nước ngoài, đùa rằng tiếng Nghệ là gốc của tiếng Anh, tiếng Nhật. Thì đây, dân Nghệ nói phủ định bằng từ “nỏ”. “Nỏ” là “không”. “Ngái ngô mô mà nỏ chộ" (“Xa xôi gì mà chẳng thấy”). Người Anh (hay nguòi Mỹ) thích từ này quá, vì nó gọn, nó ít chữ cái, nó quả quyết, rứa là họ lấy về, và do tiếng họ không có dấu thanh điệu nên họ bỏ dấu hỏi đi, thành ra "no" rồi đọc theo cách của họ là “nâu”. Còn tiếng Nghệ cho tiếng Nhật các nguyên âm A, O, I tha hồ mà lập từ, kiểu như Orakhimo (O ra khi mô = Cô ra khi nào), Ganigachi (Ga ni ga chi = Ga này ga nào). Nói thêm về từ “nỏ”. Vừa rồi tôi có đọc bài viết của một cô giáo nói được học sinh sửa cho cách hiểu một câu thơ của Tố Hữu trong bài “Bác ơi": “Chuông ơi chuông nỏ còn reo nữa” chứ không phải là “Chuông ơi chuông nhỏ còn reo nữa”. Nghe ra có vè họp lý khi đặt từ “nỏ” vào đây. Nhưng câu thơ chính của nhà thơ Tố Hữu viết từ tháng 9/1969 mới là đúng, đó là một câu hỏi tu từ nói lên tâm trạng bàng hoàng, đau đớn của nhà thơ khi được tin Bác Hồ qua đời.
Tiếng Nghệ theo ngôn ngữ học thì là một thứ tiếng cổ, cho nên những từ nay bị coi là phương ngữ trong tiếng Nghệ thì thực ra là những từ cổ còn lưu lại. Tôi không phải dân ngôn ngữ, nhưng để ý thấy có sự chuyển đổi giữa một số từ trong tiếng Nghệ và tiếng phổ thông. Lấy thí dụ âm “”. Từ tiếng Nghệ không có mà từ phổ thông có: Su=Sâu, Tru=Trâu, Nu=Nâu, Trú=Trấu, Trù=Trầu... (Riêng từ Đậu ở tiếng Nghệ cũng theo quy luật mất “” nhưng được đọc thành ĐỘ để tránh từ tục, như ĐỘ ĐEN, ĐỘ ĐẠI HỌC). Nhưng lại có xu hướng ngược lại  thành A: Sây= Sai, Trấy=Trái, Gây=Gai, Gấy=Gái,
Cấy=Cái, Đấy=Đái... “Đi đấy” là “đi đái”. Cứ kể ra thế này thì còn nhiều, các nhà ngôn ngữ học sẽ có cách giải thích hợp lý, còn người nói hàng ngày thì vẫn nói, và ai vô ra xứ Nghệ sẽ vẫn có bất ngờ thích thú trước những từ địa phương của vùng đất Hoan Diễn xưa. Từ “Ngài” trong tiếng Việt được trang trọng dùng khi tiếp các nhân vật quan trọng, nổi tiếng nước ngoài, thì trong tiếng Nghệ là chỉ người, được dùng hàng ngày. Đoàn enh đi có mấy ngài? Trưa nay ăn cá náng (nướng) hay cá loọc (luộc)?
Tiếng Nghệ đã vào thơ ca của người Nghệ từ lâu.
Một bài thơ tương truyền của Nguyễn Công Trứ (1778 -1858) nghịch ngợm và tình tứ:
Tau (tao) ở nhà tau, tau nhớ mi (mày)
Nhớ mi nên mới bước chin (chân) đi
Không đi mi nói răng(sao) không đến
Đến thì mi nói đến mần (làm) chi
Mần chi tau đã mần chi được
Mần được thì tau đã mần đi.
Nhà thơ Nguyền Bùi Vợi (1933-2008) có bài thơ “Tiếng Nghệ” yêu thương khắc khoải:
Cái gầu thì bảo cái đài
Ra sân thì bảo ra ngoài cái cươi
Chộ tức là thấy mình ơi
Trụng là nhúng đấy đừng cười nghe em
Thích chi thì bảo là sèm
Nghe ai bảo đọi thì mang bát vào
Cá quả lại gọi cá tràu
Vo troốc là bảo gội đầu đấy em...
Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Răng chưa sang nhởi nhà choa
Bà o đã nhốt con ga trong truồng
Nhà giáo Nguyễn Hùng Vỹ ở Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội đang “chơi” dịch thơ tiếng Việt sang tiếng Nghệ, ví như một bài dịch Đường thi:
Anh ở đầu sông Tương
Em ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không thấy nhau
Cùng uống nước sông Tương
chuyển qua “Nghệ ngữ” thành:
Mi ở đầu sôông Tương
Tau ở cuối sôông Tương
Nhớ chắc không thấy chắc
Cùng uống nác sôông Tương.
Có lẽ những người xứ Nghệ ở quê và xa quê đều đồng cảm tâm trạng của chàng trai trong bài thơ của Nguyên Bùi Vợi sau khi làm “phiên dịch” cho cô gái lần đầu về quê mình:
Em cười bối rối mà thương
Thương em một lại trăm đường thương quê
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Chắt từ đá sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.
Ngày xuân nói chuyên tiếng Nghệ không hẳn để nói một địa phương, vì trong đại gia đình tiếng Việt còn những sắc thái của tiếng Hà Nội, tiếng Sài Gòn, tiếng Huế, tiếng Ọuảng, tiếng Nam bộ..., mà cốt để nói tâm tình của những người con xa quê nhớ quê cho mọi vùng miền đất nước. Còn như tiếng Hà Tĩnh, tiếng Nghệ Tĩnh nói chung, thì lại phải nhờ nhà thơ Phạm Tiến Duật nói hộ cảm xúc của người nghe, “anh lặng người như trôi trong tiếng ru”.
Hà Nội 26/11/2013
(Theo Phạm Xuân Nguyên/ Tiền Phong)" alt=""/>Tiếng Nghệ