“Việc đánh bắt cá từ biển không còn đủ để trang trải cuộc sống nữa”, một người phụ nữ thở dài. “Kurisa sắp chết rồi”.
Kurisa là quê hương của người Bugis Wajo và họ đã an cư lập nghiệp tại làng chài này từ nhiều thế hệ. Cuộc sống thường nhật của họ đã từng êm ả trôi qua, khi những người đàn ông căng buồm ra khơi để đánh bắt cá còn những người phụ nữ ở lại vun vén và chăm sóc cho đàn con thơ.
Một ngư dân ở đây tiếc nuối: “Khi còn là thiếu niên, tôi được đắm mình trong những làn nước trong vắt, chơi trốn tìm trong những rặng san hô”. Nhưng tất cả đã trở thành dĩ vãng khi các tập đoàn lớn bắt đầu xây dựng các nhà máy chế biến niken ở khu vực gần đó.
Cách làng chài Kurisa vài trăm mét là một nhà máy than cung cấp năng lượng cho khu công nghiệp Morowali Indonesia (IWIP) – một khu liên hợp công nghiệp khổng lồ được quản lý bởi liên doanh Trung Quốc – Indonesia. Các nhà máy khai thác và chế biến niken ở đây đã cung cấp lượng niken khổng lồ, cần thiết cho quá trình chế tạo pin xe điện. Người dân cho hay các hoạt động của IWIP đã khiến nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề, bắt đầu từ năm 2015.
“Trước đây chúng tôi có thể nhìn thấy một cây kim ở đáy, nhưng giờ thì, tất cả chỉ toàn là bùn”, một người dân chỉ vào vùng nước đục ngầu bên cạnh. Họ cũng cho hay nhiệt độ của nước trong khu vực đã tăng lên đáng kể do chất thải từ hệ thống làm mát của nhà máy than gần đó. Chính vì thế, “lũ cá đã phải bỏ chạy”.
Cùng với Australia, quốc đảo Indonesia là nơi có trữ lượng niken lớn nhất hành tinh. Trong nhiều thập kỷ, quốc gia này có ngành xuất khẩu niken phát triển. Tuy nhiên, hiện nay Indonesia đã ngừng xuất khẩu nhiên liệu niken thô. Thay vào đó, quốc gia này đặt mục tiêu và tham vọng vào một ngành công nghiệp mới hơn – xe điện.
Indonesia đặt mục tiêu giữ vững vị trí quan trọng của mình trong chuỗi sản xuất xe điện toàn cầu, với sự giúp đỡ của đối tác đầy tiềm lực – Trung Quốc. Thay vì sản xuất niken thô, các công ty Trung Quốc đang hợp tác với các công ty Indonesia để xuất khẩu niken tinh chế.
Nhưng trong lúc Indonesia mơ ước trở thành “mắt xích” quan trọng trong ngành công nghiệp xe điện thì những người dân làng chài lại đang kêu cứu khi phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường. Ngành chế biến niken liên quan đến sản xuất xe điện đang tàn phá môi trường sống cũng như là mối đe dọa đối với đất đai và sinh kế của những người dân nơi đây.
Một người phụ nữ với khuôn mặt khắc khổ cay đắng nói “Chúng tôi không ăn cá nữa, chúng tôi ăn than”.
IWIP hiện đã “nuốt chửng” gần hết làng Fatufia – cách Kurisa khoảng 3 đến 4 km về phía Tây Bắc và một phần của Laboto – một ngôi làng cách đó 8 km về phía Nam. Từng được bao quanh bởi rừng rậm, Fatufia giờ đây lại vô cùng bụi bặm. Người dân nơi đây không thể mở cửa chính và cả cửa sổ, dù chỉ trong vài giờ nếu không muốn đồ đạc trong nhà phủ đầy bụi bặm.
Than đá là nguồn năng lượng chính của khu công nghiệp IWIP – nơi cần tới 9 triệu tấn than đá mỗi năm để cung cấp năng lượng cho các nhà máy. Khi khu công nghiệp IMIP dần mở rộng hơn, các băng chuyền than đá cũng xuất hiện dày đặc. Những băng chuyền này được xây dựng giống như hàng chục cây cầu trên cao, mỗi ngày đều làm nhiệm vụ vận chuyển than từ cơ sở này sang cơ sở khác ở trong IWIP.
Bọn trẻ ở Labota mỗi ngày đều cắp sách đến một ngôi trường nằm ngay dưới một băng chuyền như vậy. Một trường học khác gần đó thậm chí còn được đặt ngay cạnh nhà máy than đang hoạt động.
Phó hiệu trưởng của trường học này cho hay, kể từ khi nhà máy hoạt động, bọn trẻ bị mắc bệnh hô hấp nhiều hơn. “Ngay cả khi vào ban đêm, nếu mở cửa, chúng tôi vẫn có thể ngửi thấy mùi khói”. Các nhà máy chế biến niken tại IWIP đang gây ô nhiễm không khí do thải ra khí lưu huỳnh dioxit và tro than – những thứ cực kì có hại nếu hít phải.
Không chỉ đối mặt với những ô nhiễm về nguồn nước, đất và không khí, người dân xung quanh khu vực này còn bị tra tấn bởi tiếng ồn. Aswin - một chủ tiệm rửa xe máy nhỏ ở Labota vô cùng bực tức khi thường xuyên bị đánh thức bởi tiếng khoan ầm ĩ trong lúc công nhân dựng cọc nâng đỡ cho băng chuyền.
Việc khoan đục diễn ra cả ngày lẫn đêm khiến anh và những người cùng làng không thể chịu đựng được và quyết định đối đầu với các công nhân. “Họ nói rằng chúng tôi đang cản trở hoạt động của công ty nhưng thực chất, chúng tôi chỉ muốn biết tại sao họ đột nhiên xây dựng những thứ này mà không có bất kì thông báo nào cho người dân địa phương”. Không chỉ bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn, Aswin và những người cùng làng còn phải chịu đựng bụi bặm khi những chiếc xe tải chở quặng đi qua. “Tôi không còn cảm thấy thoải mái khi sinh sống trên chính quê hương mình nữa”.
Muhammad Taufik – giám đốc của JATAM - tổ chức tập trung vào môi trường và nhân quyền cho hay ông cùng tổ chức của mình sẽ thúc đẩy chính phủ Indonesia đánh giá lại các chính sách phát triển xe điện cũng như các ngành liên quan.
Ông cho hay, mặc dù sản phẩm cuối cùng là xe điện thân thiện với môi trường nhưng quy trình sản xuất của nó thì không. “Các quy trình sản xuất các bộ phận và chi tiết trên xe điện hầu hết vẫn sử dụng năng lượng hóa thạch như nhà máy nhiệt điện than”, ông nói.
Nhiều người dân ở các khu vực xung quanh còn lên tiếng tố cáo các công ty trong IWIP cố tình chèn ép họ khi họ không bán đất. Sigoro – một người dân tại đây cho hay đại diện của IWIP đã gõ cửa nhà anh ấy hơn 10 lần để thuyết phục ông bán đất. Sau khi ông từ chối, con trai của ông đã bị đuổi việc khỏi một căng tin thực phẩm thuộc IWIP. Việc IWIP gây áp lực và buộc người dân phải bán đất của họ để mở rộng nhà máy là điều không còn xa lạ ở nơi đây. Thậm chí, có những người còn bị đe dọa bằng lời nói khi từ chối bán đất.
Hoạt động trồng trọt của người dân cũng bị ảnh hưởng nhiều vì hoạt động của IWIP. “Khu đất nông nghiệp rộng 2 héc-ta của tôi đã bị phá hủy nhưng đến giờ vẫn chưa nhận được tiền bồi thường”, một cư dân 35 tuổi cho hay. “Tất cả chúng tôi đều đang cảm thấy bi quan với cuộc sống này”.
Câu chuyện hiện tại của Indonesia không khác mấy so với những gì đã từng diễn ra tại các quốc gia có nhiều nguyên liệu sử dụng trong sản xuất pin xe điện. Trước đó, cư dân địa phương ở Chile, Argentina, Congo và nhiều nơi khác cũng đã lên tiếng về sự phá hoại môi trường và điều kiện làm việc nguy hiểm hay bóc lột sức lao động tại các nhà máy sản xuất pin xe điện.
Ở Nam bán cầu – nơi cung cấp hầu hết các nguyên liệu thô cho pin xe điện, nhu cầu xe điện ngày càng tăng cũng làm sâu sắc thêm những bất công hiện có trong ngành khai khoáng. Và những khu vực khai thác và sản xuất khoảng sản đất hiểm tại đây đều chủ yếu do các doanh nghiệp Trung Quốc thống trị.
Tại Chile, hoạt động khai thác khoáng sản lithium đã làm nảy sinh những tranh cãi về việc sử dụng nước và quyền lợi của người dân bản địa. Ở Corgo, việc khai thác coban – sử dụng làm pin lithium-ion đã gây ra mức độ phóng xạ vượt chuẩn khiến nhiều người dân buộc phải di dời.
Trở lại với Indonesia, Trung Quốc hiện cũng đang kiểm soát tới 61% tổng sản lượng niken, trong khi các doanh nghiệp nhà nước của Indonesia chỉ kiểm soát 5%. Vai trò của Trung Quốc trong việc khai thác và chế biến niken tại Indonesia khá nổi trội so với các quốc gia đối tác khác.
Ahmad Redi, chuyên gia về luật khai thác và tài nguyên thiên nhiên tại Đại học Tarumanagara tin rằng sự thống trị của Trung Quốc có thể ví như một con dao hai lưỡi. Một mặt, nó giúp tăng thu nhập cho quốc gia và tăng trưởng kinh tế địa phương tại Indonesia. Tuy nhiên, mặt khác, nó có thể biến niken của Indonesia trở thành một con "tốt thí" trong chương trình công nghiệp hóa lớn hơn của Trung Quốc. “Điều này đồng nghĩa với việc Indonesia không thể đạt được tiềm năng kinh tế và giá trị gia tăng tối đa”, ông cho hay.
Ngoài ra, các nhà đầu tư Trung Quốc không phải là những người có mối quan tâm cao đến môi trường. “Thiệt hại về môi trường và xung đột xã hội sẽ khiến Indonesia chịu tổn thất lâu dài”, Ahmad khẳng định.
Minh Nhật (Theo Rest of World)
Người đi tìm cảm hứng sáng tác
Nắng chiều ngày cuối năm len lỏi qua tán lá dưới hiên nhà, gió se se lạnh, Y Phôn K’Sơr mặc quần jeans, áo ấm ngồi ôm đàn guitar hát trước sân nhà ở TP Buôn Mê Thuột (Đắk Lắk). Tiếng hát văng vẳng: “Cha đi lượm quả ngọt, cho con đỡ đói qua đêm. Cha đi lượm hạt thóc, cho con một bát cơm chiều” làm tôi có chút bâng khuâng khó tả.
Bài hát Đôi chân trần được Y Phôn sáng tác năm 1995 - một trong những ca khúc rất riêng biệt của núi rừng được nhiều ca sĩ trẻ Tây Nguyên thể hiện nhưng khi được nghe chính tác giả hát, tôi thực sự xúc động và ấn tượng.
Clip cố NSND Y Moan hát ''Đôi chân trần'':
Y Phôn K’Sơr kể rằng trong một buổi chiều muộn tháng 4/1995, ông cùng cố NSND Y Moan và ca sĩ Y Jack Arul mang theo đàn lang thang đại ngàn, tìm cảm hứng cho âm nhạc. Tới một buôn nghèo của huyện Krông Năng (Đắk Lắk), họ bắt gặp một cụ ông trở về nhà sau một hôm vào rẫy. Nắng chiều chưa tắt, cụ ông với làn da ngăm đen, dáng đi khắc khổ, mang đậm bản sắc người bản xứ, trên miệng ngậm điếu thuốc xuất hiện.
Vốn là người thích hút thuốc lá, ca sĩ Y Moan liền tới bắt chuyện, hỏi mượn bật lửa. Hai người đứng nói về buôn làng, về con người nơi họ sống. Còn Y Phôn K'Sơr và ca sĩ Y Jack Arul lắng nghe, thi thoảng đáp lại đôi câu rồi rời đi.
Sau cuộc trò chuyện với ông lão tình cờ gặp ở huyện Krông Năng, Y Phôn K'Sơr bên cạnh hình ảnh ấn tượng cụ ông với đôi chân trần, dáng đi trông khắc khổ hiện lên trong đầu thì nỗi nhớ cha mẹ cùng những người dân quê nhà khiến ông không ngừng thổn thức. Những ca từ cứ ùa về, văng vẳng trong đầu.
''Tôi muốn quên đi. Tháng với ngày. Cha đi lượm quả ngọt rừng. Cho con đỡ đói qua đêm...Lời hát lần đầu được cất lên, nước mắt tôi trào ra bởi vô vàn cảm xúc lẫn lộn về cha mẹ, quê hương”, nhạc sĩ nhớ lại.
Sau đó, khi nghe nhạc sĩ chia sẻ về lời ca Đôi chân trần, Y Moan tỏ ra hào hứng yêu cầu được thể hiện. “Chỉ vài phút, anh ấy đã thuộc lời bài hát, rồi giọng hát đầy nội lực vang lên”, Y Phôn kể. Cũng từ đó, qua giọng ca của NSND Y Moan, bài hát Đôi chân trầnđược cộng đồng đón nhận, lan tỏa.
Ca khúc này chỉ là một trong vô số cảm xúc của người nhạc sĩ phố núi gửi gắm qua lời ca, tiếng hát. Cuộc đời sáng tác của ông còn có một số bài hát nổi tiếng khác như Chim phí bay về cội nguồn, Đi tìm lời ru mặt trời. Mỗi ca khúc là một cung bậc cảm xúc, một trải nghiệm rất riêng của Y Phôn trên chuyến hành trình nghệ thuật ấy.
Hành trình tìm nguồn sống
Y Phôn sinh ra trong một gia đình đông con ở buôn Dlei Yang, nơi có ngọn núi Dlei Yang, khởi nguồn của con sông Ea H’leo chảy giữa trái tim Tây Nguyên. Tuổi thơ ông gắn liền với thảo nguyên, văn hóa cội nguồn Tây nguyên.
Mẹ ông là nghệ nhân thổi đing put. Cha là người chơi chiêng có tiếng ở huyện Ea H’leo, Đắk Lắk. Năm lên 7 tuổi, Y Phôn đã biết chơi đàn goong một cách thuần thục. 11 tuổi, ông đã theo cha biểu diễn cùng dàn cồng chiêng của buôn, đi khắp trong vùng. Tình yêu âm nhạc được hun đúc theo thời gian, ở tuổi 15, mỗi ngày trên nương trở về, Y Phôn ôm đàn biểu diễn cùng cha trong ngôi nhà sàn, bên bếp than đỏ lửa…
Tưởng rằng con đường nghệ thuật của Y Phôn sẽ trải đầy hoa hồng, nhưng không. Y Phôn có thời điểm quyết định tạm ngừng nghệ thuật về quê lo cho gia đình. Những năm 1990, có giai đoạn ông phải về làm rẫy phụ gia đình và hỗ trợ em gái nuôi những đứa cháu.
Và cũng trong thời gian được xem là độ chín của nghề, Y Phôn đã cho ra đời bài hát đầu tay của ông sáng tác là Lời ru mùa lúa. Lời ca khúc chính là tâm sự của người nhạc sĩ về quê hương, về những lam lũ vất vả mà bà con trong buôn làng phải mặt… Tuy vậy, năm 1992, khi tham dự trại sáng tác âm nhạc khu vực Tây Nguyên, được trình làng ca khúcChim Phí bay về cội nguồn,mọi người mới biết tới Y Phôn.
Khoảng thời gian này, Y Phôn chuyển công tác tới Đoàn ca múc dân tộc Đắk Lắk, hát bè cho Y Moan. Ở đây, ông tiếp tục sáng tác, rồi cho ra đời bài Đi tìm lời ru nữ thần mặt trời.Ca khúc ngay lập tức tạo tiếng vang bởi chất nhạc, ca từ của nó đậm chất núi rừng, âm hưởng Tây Nguyên.
Ca khúc sau đó được Y Moan thể hiện. Tới lúc ca sĩ Jack Arul cất giọng hát bài này thì anh được giới yêu nhạc cả nước biết đến. Đặc biệt, tại Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn quốc năm 1997, ca sĩ Y Jack Arul đã khiến nhiều người mê đắm khi cất lên câu hát: “Một mình lang thang trên đất này. Một mình qua sông, qua núi đồi. Theo dấu chân cha ông ngàn đời”.
Có nhiều người ví von các ca khúc do Y Phôn sáng tác có âm hưởng trữ tình và sâu lắng. Từng lời ca của ông đều gửi gắm cái tình, nỗi hoài nhớ về một vùng đất xưa cũ, nơi có những ông già đi chân trần để mang về từng hạt thóc cho đàn con thơ. Hay cả những hình ảnh con suối, con thú hoang sao mà thật đến thế. Nhưng ít ai biết rằng để miêu tả trọn vẹn vùng đất ấy, người nghệ sĩ phải đủ yêu, đủ thương, đủ trải nghiệm mới thể hiện trọn vẹn cảm xúc trong lời hát.
Thành công trong việc viết nhạc, Y Phôn ngoài đời còn là người may mắn khi có người vợ chia sẻ và ủng hộ đam mê của chồng. Vợ ông, bà H’Nhat Kpă tốt nghiệp Đại học Văn hóa Tây Nguyên, sau đó làm giảng viên âm nhạc. Họ gặp nhau rồi bén duyên từ lần gặp đầu tiên. Năm 1997, họ kết hôn và sinh 2 con.
Ông tự hào vì từ bé tới khi lớn lên, 2 con đều chăm ngoan, có ý chí cầu tiến. Con gái tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý tài nguyên môi trường, đã có gia đình riêng. Con trai ông thi đỗ Đại học Bách khoa Đà Nẵng. “Trên giảng đường, con trai thấy bản thân yêu âm nhạc, nên dừng việc học, theo con đường ca hát. Tôi tôn trọng và để con phát triển theo mong muốn của bản thân”, ông nói.
Y Phôn chia sẻ, công việc cũng như việc sáng tác không mang lại quá nhiều về kinh tế nên cuộc sống cũng chật vật. Bản thân ông có những lúc tự trách mình đã để vợ con vất vả. “Có những lúc tôi muốn bỏ nghề nhưng vợ phát hiện, động viên làm hậu phương để tôi có động lực đeo đuổi đam mê của mình”, Y Phôn chia sẻ.
Từ cuối năm ngoái, Y Phôn thôi giữ chức Phó giám đốc Trung tâm Văn hóa tỉnh Đắk Lắk và chính thức về hưu. Thi thoảng ông vẫn đi hát để có thêm thu nhập. Tình yêu với âm nhạc trong ông chưa bao giờ thay đổi. Điều ông mong mỏi là những tượng đài như cố ca sĩ Y Moan mất đi nhưng sẽ hóa bóng thông già để nuôi dưỡng, che chở và phát huy tình yêu âm nhạc của thế hệ sau.
" alt=""/>Hé lộ hôn nhân hạnh phúc của tác giả 'Đôi chân trần'Do ảnh hưởng của không khí lạnh và gió đông trên cao gây mưa lớn, TP Huế sáng nay bị ngập nhiều tuyến đường, 290.000 học sinh phải nghỉ học, nhưng "thời tiết mưa gió không cản trở du khách đến thăm".